5 phút soạn Văn 9 tập 1 chân trời sáng tạo trang 89

5 phút soạn Văn 9 tập 1 chân trời sáng tạo trang 89. Giúp học sinh nhanh chóng, mất ít thời gian để soạn bài. Tiêu chi bài soạn: nhanh, ngắn, súc tích, đủ ý. Nhằm tạo ra bài soạn tốt nhất. 5 phút soạn bài, bằng ngày dài học tập.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

BÀI 4. CON NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI KÌ ẢO

VĂN BẢN 1. CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

PHẦN I. CÁC CÂU HỎI TRONG SGK

CHUẨN BỊ ĐỌC

CH: Nêu một số chỉ tiết kì ảo trong các truyện kể dân gian mà em đã đọc và cho biết yếu tố đó thường được sử dụng trong các trường hợp nào và với mục đích gì.

TRẢI NGHIỆM CÙNG VĂN BẢN

CH1: Những từ ngữ nào trong đoạn này gợi lên đặc điểm, tính cách của Vũ Nương, Trương Sinh?

CH2: Câu nói này của bé Đản sẽ tác động thế nào đến Trương Sinh?

CH3: Đây là lời đối thoại hay độc thoại?

CH4: Các câu nói của bé Đản ở đoạn trên có tác dụng gì trong việc thể hiện số phận của Vũ Nương?

CH5: Chú ý sự thay đổi thái độ, tình cảm của Vũ Nương trong đoạn này.

CH6: Em có nhận xét gì về cái kết của câu chuyện?

SUY NGẪM VÀ PHẢN HỒI

CH1: Nêu nội dung bao quát của văn bản, liệt kê các sự kiện theo diễn biến câu chuyện và cho biết các sự kiện ấy được sắp xếp theo trật tự thời gian, không gian như thế nào?

CH2. Liệt kê các nhân vật trong văn bản. Xác định nhân vật chính, nhân vật phụ.

CH3: Phân tích tính cách của nhân vật Vũ Thị Thiết. Chỉ ra điểm khác biệt trong cách ứng xử của nàng lúc còn sống với gia đình ở trần gian và khi đã về thuỷ phủ.

CH4: Nêu một số nét nổi bật trong tính cách của nhân vật Trương Sinh. Những nét tính cách ấy có phải là nguyên nhân gây nên nỗi bất hạnh của Vũ Thị Thiết?

CH5: Tìm các chỉ tiết kì ảo được sử dụng trong tác phẩm và nêu tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

CH6: Đọc lời thoại của các nhân vật trong văn bản và cho biết:

a. Lời nói của Vũ Thị Thiết trước khi tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang là đối thoại hay độc thoại? Dựa vào đâu em xác định được như vậy?

b. Các câu bé Đản nói với Trương Sinh trước và sau cái chết của Vũ Thị Thiết có vai trò như thế nào đối với diễn biến của sự việc, câu chuyện?

CH7: Những dấu hiệu nào giúp em phân biệt Truyện Người con gái Nam Xương là truyện truyền kì?

CH8: Lời bình ở cuối truyện về Vũ Thị Thiết có đoạn: “Nếu không được trời xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết”. Em có đồng ý với lời bình trên không? Vì sao? Qua nhân vật Vũ Thị Thiết, em hiểu thêm điều gì về số phận của người phụ nữ trong một xã hội đề cao nam quyền?

PHẦN II. 5 PHÚT SOẠN BÀI

CHUẨN BỊ ĐỌC

CH: - Chi tiết kì ảo trong truyện kể dân gian:

+ Sự ra đời kì lạ của Thánh Gióng

+ Thạch Sanh có niêu cơm thần mà 18 nước ăn mãi không hết,

+ Phép thần thông biến hoá của Sơn Tinh và Thuỷ Tinh

- Các chi tiết kì ảo trên thường được sử dụng trong các câu chuyện dân gian nhằm mục đích thể hiện tâm tư và nguyện vọng của nhân dân hay là lí giải quan niệm về thế giới của người xưa.

TRẢI NGHIỆM CÙNG VĂN BẢN

CH1: Từ ngữ gợi lên đặc điểm, tính cách của Vũ Nương: “thuỳ mị, nết na”, “ tư dung tốt”, “dung hạnh”, “giữ gìn khuôn phép”.

Từ ngữ gợi lên đặc điểm, tính cách của Trương Sinh: “đa nghi, không có học”.

CH2: Vốn dĩ là người đa nghi, lại không có học nên khi bé Đản nói: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, Trương Sinh sẽ ghen mà không suy xét lại vấn đề, không có lòng tin với vợ và không phân biệt đúng sai, quy chụp lời con nhỏ là đúng mà vu oan cho vợ.

CH3: Lời của Vũ Nương là lời độc thoại bởi có người nói nhưng không có người nghe.

CH4: - Lời nói thứ nhất của bé Đản: "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít" -> Đây là lời nói ngây thơ của con trẻ, nói lên đúng suy nghĩ và nhận thức của bé Đản với Trương Sinh. Lời nói ngây thơ ấy đã vô tình làm bùng lên cơn ghen tuông đến mù quáng của Trương Sinh và đẩy Vũ Nương vào nỗi oan không thể hóa giải 

- Lời nói thứ hai của bé Đản: "Cha Đản lại đến kia kìa", “Đây này” Là khởi nguồn để hóa giải nỗi oan cho Vũ Nương 

=> Nhận xét: Cả hai lời nói của bé Đản đều góp phần làm nên giá trị của câu chuyện. Nếu như lời nói thứ nhất là nguồn cơn thắt nút câu chuyện thì lời nói thứ hai chính là khởi nguồn hóa giải mọi chuyện.

CH5: Nàng ứa nước mắt khóc xót xa cho thân mình, sau đó nàng đã quả quyết đổi giọng của mình để không muốn mang tiếng xấu xa quyết định trở về dương gian một chuyến rửa sạch nỗi oan ức.

CH6: - Kết thúc truyện Chuyện người con gái Nam Xương dẫu có yếu tố kì ảo, Vũ Nương vẫn sống ở một thế giới khác, được minh oan nhưng hạnh phúc không trọn vẹn, đã thể hiện được tinh thần nhân đạo và khát vọng của con người về cuộc sống

- Kết thúc của truyện tuy thỏa mãn ước mơ về công bằng ở đời: người tốt sẽ gặp được những điều tốt nhưng hiện thực thì không phải lúc nào cũng vậy.

=> Bi kịch vẫn còn đó trong cái kết của truyện, gợi cho chúng ta nhiều sự thương cảm, xót xa cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp lại chịu nhiều bi kịch dưới chế độ phong kiến hà khắc.

SUY NGẪM VÀ PHẢN HỒI

CH1: - Nội dung bao quát: Câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương.

- Các sự việc chính:

+ Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) đẹp người đẹp nết, được Trương Sinh con nhà giàu nhưng thất học, hay ghen cưới về làm vợ

+ Chàng Trương Sinh phải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người vợ trẻ ở nhà.

+ Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ chồng chu đáo và nuôi con thơ

+ Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương lo ma chay chu tất.

+ Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, đau buồn khi nghe tin mẹ mất

+ Con nhỏ chưa bao giờ gặp cha nên không nhận Trương Sinh.

+ Trương Sinh sẵn tính hay ghen, nghe lời con nhỏ khi nhận chiếc bóng trên tường là cha, nghi vợ không chung thuỷ.

+  Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông Hoàng giang tự vẫn.

+ Sau này, sự việc sáng tỏ, người cha mà đứa con nói lại chính là chiếc bóng của mẹ, Trương Sinh như hiểu ra, chàng ân hận.

+  Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam Hải, nên khi chạy nạn, chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để trả ơn.

+ Phan Lang gặp lại Vũ Nương trong động của Linh Phi. Hai người nhận ra nhau. Phan Lang được trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh.

+  Trương Sinh nghe Phan Lang kể, biết vợ bị oan, bèn lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang.

+ Vũ Nương trở về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện, rồi biến mất.

- Các sự kiện trên được sắp theo trật từ thời gian của cuộc đời Vũ Thị Thiết. Không gian hiện thực ở nhà và kỳ ảo khi ở dưới thuỷ phủ.

CH2: Có 4 nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Bé Đản, Phan Lang. Trong đó,

- Nhân vật chính: Trương Sinh, Vũ Nương

- Nhân vật phụ: bé Đản, mẹ chồng, Phan Lang

CH3: - Tính cách của nhân vật Vũ Thị Thiết:

+ Thuỳ mị nết na vì vậy mà Trương Sinh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ

+ Luôn luôn giữ gìn khuôn phép khi ở với Trương Sinh để tránh ghen tuông.

+ Hiếu thuận với mẹ chồng, lễ nghĩa chu toàn khi Trương Sinh đi lính.

+ Đảm đang, tận tuỵ, một mình chu đáo nuôi con nhỏ sợ con thiếu thốn tình cảm của cha nên trỏ cái bóng của mình trên tường nhận làm cha của bé Đản.

+ Giàu lòng tự trọng khi Vũ Thị Thiết bị dồn đẩy đến bước đường cùng, đành mượn dòng nước sông Hoàng Giang sâu thẳm để rửa sạch tiếng nhuốc nhơ oan ức.

+ Luôn hướng về gia đình, quê hương, coi trọng danh dự khi ở dưới thuỷ phủ.

Ứng xử của nàng lúc còn sống với gia đình

Khi đã về thuỷ phủ của nàng

 

- Lời nói dịu dàng “Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót…”.

- Xa chồng, Vũ nương “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” sắt son, chung thủy

- khi mẹ chồng ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, mẹ chồng mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra”.

- Sợ con thiếu tình cảm mà trỏ vào cái bóng của mình nhận là cha Đản

- Khi nàng và Trương Sinh bất hoà vì lời nói của bé Đản nàng xưng hô đúng mực, hạ giọng, phân trần có ý muốn hoà giải.

 

- Vũ Thị Thiết sống sung sướng nhưng không cảm thấy hạnh phúc.

- Khi nói chuyện với Phan Lang: Lúc đầu nàng cảm thấy đau buồn khi bị chồng ruồng bỏ, không còn mặt mũi để trở về

-  Về sau nàng thay đổi thái độ khóc thương và mong muốn có dịp trở về quê cũ.

- Nàng đã dặn dò Phan Lang và đưa ra tín vật của nàng với Trương Sinh lập đàn giải oan thì mới có thể trở về và Nhận thức về danh dự của mình.

 

CH4: - Nét nổi bật trong tính cách của nhân vật Trương Sinh:

+ Gia trưởng, độc đoán, đa nghi hay ghen tuông vô cớ: 

Vì mến dung hạnh của Vũ Nương, Trương Sinh đã xin mẹ đem trăm lượng vàng cưới nàng về làm vợ. Nhưng đối với vợ, Trương Sinh lại “phòng ngừa quá mức”.  Dù Vũ Nương hết sức giữ gìn khuôn phép, vợ chồng chưa bao giờ thất hòa nhưng lại luôn thấy tù túng trong một gia đình thiếu lòng tin tưởng. Có ngờ đâu chính sự đa nghi của Trương Sinh lại gây ra mối tai họa lớn. 

+  Chỉ vì nghe một câu nói của đứa trẻ thơ mà lòng nghi ngờ, ghen tuông của chàng trỗi dậy lấn át cả tình thương khiến chàng mù quáng. Trương Sinh đã dùng những lời nói thô bạo thậm chí đánh đập vợ mình để thỏa nỗi hoài nghi bấy lâu mặc cho vợ có biện minh bộc bạch. 

+ Trương Sinh là người hết sức cố chấp, bảo thủ: 

 Khi Vũ Nương van nài muốn hiểu rõ nguồn cơn sự việc, chàng đã không nói. Bởi Trương Sinh tin tưởng chắc chắn vào điều mình nghĩ là sự thật và sợ nói ra Vũ Nương sẽ thoái thác, phủ lấp sự việc. 

+ Trương Sinh là người vô tình, bạc nghĩa:

 Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tuy giận nhưng cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. 

+ Tính tình hay ghen, đa nghi quá mực (vì vừa mất mẹ, giờ lại nghe tin mình không phải cha của bé Đản cảm thấy bị nhục nhã, liên tiếp hai nối đau khiến chàng giận quá đã áp bức Vũ Thị Thiết. à Gián tiếp gây nên cái chết của nàng

CH5: - Các chi tiết kì ảo trong truyện: 

+ Vũ Nương được Linh Phi, vợ vua Nam Hải, cứu và về sống tại thủy cung. 

+ Khi Phan Lang nằm mộng, thả con rùa và lạc vào động Rùa của Linh Phi, được đãi yến tiệc và gặp Vũ Nương – người cùng làng đã chết oan, được sứ giả Xích Hỗn do Linh Phi sai đưa trở về. 

+ Vũ Nương trở về dương thế. 

+ Yếu tố kì ảo đặc sắc nhất của tác phẩm là hình ảnh Vũ Nương hiện ra khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang: lung linh huyền ảo với kiệu hoa, võng lọng rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện rồi loang loáng, mờ nhạt dần.

- Tác dụng của chúng trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:

+ Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

+ Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

CH6: a) Lời nói của Vũ Thị Thiết trước khi tìm đến cái chết là lời độc thoại vì không có lời người đáp lại.

b) Các câu nói của bé Đản nói với Trương Sinh có tác dụng đẩy sự việc lên cao trào

=> thắt nút và mở nút khi đã giải oan cho Vũ Thị Thiết

+ Thắt nút bằng yếu tố bất ngờ: Một câu nói ngây thơ nghe như thật của một trẻ thơ mà gây nên bão táp trong cuộc đời vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương: chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong trắng.

+ Gỡ nút cũng bằng yếu tố bất ngờ: Bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói ngây thơ của một trẻ thơ (“Cha Đản lại đến kia kìa!”), hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi vắng chồng.

CH7: - Truyện truyền kì là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc.

- Thường mô phỏng những cốt truyện dân gian hoặc dã sử. Sau đó, được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, xen lẫn những yếu tố kỳ ảo: Truyện được viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ tái tạo trên cơ sở truyện cổ tích "Vợ chàng Trương".

CH8: - Đồng tình vì chính tác giả cũng thương cảm cho số phận bất hạnh của nàng. Nàng là người giữ gìn khuôn phép, không bao giờ vượt mức,  xã hội ấy không có chỗ cho nàng dung thân, không ai cứu giúp nàng, chỉ có ông trời làm chứng cho nàng.

=> Qua đó thầy rằng xã hội lúc ấy giờ đề cao nam quyền, coi thường thân phận của người phụ nữ. Người phụ nữ bị bó buộc trong lễ giáo phong kiến, họ bị coi là công cụ đẻ con, chỉ quanh quẩn trong nhà làm nội trợ. Họ cũng bắt buộc phải có tam tồng tứ đức, khi ở nhà nghe theo sự sắp đặt của cha mẹ, lấy chồng nghe chồng, chồng chết theo con trai.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm:

soạn 5 phút Văn 9 tập 1 chân trời, soạn Văn 9 tập 1 chân trời trang 89, soạn Văn 9 tập 1 CTST trang 89

Bình luận

Giải bài tập những môn khác