Slide bài giảng ngữ văn 10 chân trời bài 6: Viết văn bản nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm trữ tình

Slide điện tử bài 6: Viết văn bản nghị luận phân tích đánh giá một tác phẩm trữ tình. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của môn Ngữ văn 10 chân trời sẽ khác biệt

Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu

Tóm lược nội dung

BÀI 6: NÂNG NIU KỈ NIỆM

VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ 

MỘT TÁC PHẨM TRỮ TÌNH

TRI THỨC VỀ KIỂU BÀI

Kiểu bài:

          Phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ, bằng chứng để làm rõ ý nghĩa, giá trị của chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của tác phẩm trữ tình ấy.

Yêu cầu đối với kiểu bài:

          Ngoài những yêu cầu về nội dung và kĩ năng nghị luận văn học nói chung, khi thực hiện bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm trữ tình ( thơ/văn xuôi trữ tình ), cần nêu và phân tích thỏa đáng những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật theo đặc trưng thể loại cảu tác phẩm và tác dụng của chúng.

+ Với các tác phẩm thơ trữ tình, cần tập trung phân tích, đánh giá các yếu tố như dạng thức xuất hiện của chủ thể trữ tình, cách gieo vần, ngắt nhịp, ngắt dòng,chia đoạn.....

+ Với các tác phẩm văn xuôi trữ tình như tùy bút, tản văn, cần tập trung phân tích, đánh giá cách thể hiện tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình qua mạch suy tư, cảm xúc; cách sử dụng từ ngữ; hình ảnh; biện pháp tu từ nhằm thể hiện suy tư, cảm xúc ấy,...

Bố cục bài viết gồm 3 phần:

Mở bài: giới thiệu tác phẩm, tác giả; nêu nhận xét khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Thân bài: lần lượt phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

Kết bài: khẳng định lại giá trị của chủ đề và những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm; nêu tác động của tác phẩm đối với bản thân hoặc cảm nghĩ về tác phẩm.

PHÂN TÍCH NGỮ LIỆU

Câu 1: Ngữ liệu trên là một bài viết hoàn chỉnh hay trích đoạn? Dựa vào đâu để nhận định như vậy?

Trả lời:

- Ngữ liệu trên là một trích đoạn.

- Dựa vào ký hiệu [...].

Câu 2: Xác định luận điểm được nêu trong ngữ liệu.

Trả lời:

Luận điểm được nêu trong ngữ liệu:

- Hình ảnh mây và sóng ẩn dụ cho thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng đầy hấp dẫn.

- Biện pháp tu từ điệp ngữ có tác dụng trong việc thể hiện hình ảnh ở đoạn cuối bài thơ Mây và sóng.

- Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một em bé rất đáng yêu với trái tim tràn đầy yêu thương, trí tưởng tượng phong phú và giàu óc sáng tạo.

Câu 3: Luận điểm đó được làm sáng tỏ bằng những lí lẽ, bằng chứng nào?

Trả lời:

- Luận điểm được nêu trong ngữ liệu:

- Hình ảnh mây và sóng ẩn dụ cho thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng đầy hấp dẫn.

- Biện pháp tu từ điệp ngữ có tác dụng trong việc thể hiện hình ảnh.

- Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một em bé rất đáng yêu với trái tim tràn đầy yêu thương, trí tưởng tượng phong phú và giàu óc sáng tạo.

Luận điểm

Lí lẽ, Bằng chứng

Hình ảnh mây và sóng ẩn dụ cho thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng đầy hấp dẫn.

Những kết hợp từ bình minh vàng (the golden dawn), vầng trăng bạc (the silver moon).

Biện pháp tu từ điệp ngữ có tác dụng trong việc thể hiện hình ảnh 

Điệp từ con, khẳng định vai trò chủ thể của em bé.

 Điệp từ lăn gợi hình ảnh em bé vô tư hồn nhiên, tinh nghịch vui chơi bên người mẹ hiền từ, dịu dàng.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ là một em bé rất đáng yêu với trái tim tràn đầy yêu thương, trí tưởng tượng phong phú và giàu óc sáng tạo.

- Những câu hỏi hể hiện niềm yêu thích được vui chơi, tình yêu thiên nhiên, khát vọng được đặt chân đến những thế giới xa xôi, huyền bí

- Em bé từ chối lời mời vì em biết mẹ rất yêu thương em, muốn em ở bên và em cũng muốn bên mẹ.

Câu 4: Nêu tác dụng của câu cuối trong ngữ liệu.

Trả lời:

- Khẳng định tình cảm của em bé bao quát tình cảm của tất cả con người.

- Mở rộng: tình cảm của em bé gần với và tình mẫu tử trong ca dao người Việt.

THỰC HÀNH

Đề bài: Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của một tác phẩm thơ hoặc văn xuôi trữ tình.

Trả lời:

Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ “Bếp lửa”.

Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa. Khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc, gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Từ “ấp iu” gợi hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhóm ngọn lửa, chăm lo cho cháu, để rồi trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .

Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam. Trong hoàn cảnh khốn khó, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, lo cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Kỷ niệm ấy hằn sâu trong tâm trí tác giả, giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, vượt qua mọi giông bão ngoài kia chở che, bảo vệ cho cháu.

Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “bà - cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa hai người. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. 

Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng. Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn: “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ. Khổ thơ với điệp từ “nhóm” vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”, để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”

Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà, gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người.