Slide bài giảng ngữ văn 10 chân trời bài 2: Viết văn bản nghị luật về một vấn đề xã hội

Slide điện tử bài 2: Viết văn bản nghị luật về một vấn đề xã hội. Kiến thức bài học được hình ảnh hóa, sinh động hóa. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của học môn Ngữ văn 10 Chân trời sẽ khác biệt

Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu

Tóm lược nội dung

BÀI 2: SỐNG CÙNG KÍ ỨC CỦA CỘNG ĐỒNG

VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT VẤN ĐỀ XÃ HỘI

TRI THỨC VỀ KIỂU BÀI

Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội là kiểu văn bản dùng lí lẽ, bằng chứng để bàn luận và làm sáng tỏ về một vấn đề xã hội (một ý kiến, một tư tưởng đạo lí hay một hiện tượng xã hội), giúp người đọc nhận thức đúng về vấn đề và có thái độ, giải pháp phù hợp đối với vấn đề đó.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI KIỂU BÀI

- Nêu và giải thích được vấn đề nghị luận.

- Trình bày ít nhất hai luận điểm về vấn đề xã hội; thể hiện rõ ràng quan điểm, thái độ (khẳng đinh/ bác bỏ) của người viết, hướng người đọc đến một nhận thức đúng và có thái độ, giải pháp phù hợp trước vẫn đề xã hội. Liên hệ thực tế, rút ra ý nghĩa của vấn đề.

- Sử dụng được các bằng chứng thực tế tin cậy nhằm củng cố cho lí lẽ,

- Sắp xếp luận điểm, lí lẽ theo trình tự hợp lí.

- Diễn đạt mạch lạc, khúc chiếc, có sức  thuyết phục.

- Có 3 phần mở bài, thân bài, kết bài theo quy cách của kiểu bài

Mở bài: nếu vấn đề xã hội cần nghị luận; sự cần thiết bàn luận về vấn đề.

Thân bài: trình bày ít nhất hai luận điểm chính nhằm làm rõ ý kiến và thể hiện quan điểm, thái độ của người viết (trước cách biểu hiện đúng/ sai/ tốt/ xấu); sử dụng lí lẽ và bằng chứng thuyết phục.

Kết bài: Khẳng định lại tầm quan trọng hay ý nghĩa của vấn đề cũng thái độ, lập trường của người viết.

PHÂN TÍCH NGỮ LIỆU

Câu 1: Ngữ liệu đã đáp ứng được yêu cầu về bố cục đối với kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội hay chưa?

Trả lời:

Ngữ liệu đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về bố cục đối với một bài về nghị luận xã hội. 

Câu 2: Việc tác giả dùng đoạn đầu trong thân bài để đưa ra cách hiểu về khái niệm “thần tượng” có tác dụng như thế nào trong cách triển khai vấn đề?

Trả lời: 

Giúp vấn đề được triển khai dễ dàng hơn. Các lí lẽ cũng dễ liên kết và giúp làm sáng tỏ được vấn đề đang nói đến

Câu 3: Nhận xét về cách người viết sử dụng lí lẽ và bằng chứng để làm sáng tỏ các luận điểm chính trong văn bản.

Trả lời:

Người viết sử dụng lí lẽ và bằng chứng khá hợp lý. Đầu tiên, người viết đã chọn ra ba luận điểm chính, sau mỗi luận điểm, người viết sẽ đưa ra lí lẽ kèm với dẫn chứng cụ thể để làm sáng tỏ luận điểm đó

Câu 4: Nêu một số từ ngữ, câu văn cho thấy người viết đã chú ý thể hiện quan điểm của mình, nhận xét về cách thể hiện ấy.

Trả lời:

- ''Xung quanh này, theo tôi, có mấy câu hỏi cần được trả lời thỏa đáng..''

- ''Câu trả lời, theo tôi, là phải cả hai''

Đây là một cách sử dụng khéo léo để thể hiện rõ ràng là đây là quan điểm cá nhân. Điều này sẽ làm cho người đọc và người viết dễ trao đổi ý kiến về luận điểm hơn.

Câu 5: Bạn rút được kinh nghiệm hay lưu ý gì trong cách trình bày ý kiến về một vấn đề trong đời sống từ ngữ liệu trên?

Trả lời:

- Nêu và giải thích được vấn đề cần nghị luận.

- Trình bày phải đủ ba phần mở, thân, kết.

- Có luận điểm kèm với lí lẽ, dẫn chứng rõ ràng.

- Luôn phải chú ý thể hiện được đây là quan điểm của bản thân.

THỰC HÀNH VIẾT THEO QUY TRÌNH

Đề bài: Hãy viết văn bản nghị luận trình bày ý kiến về một trong những vấn đề sau:

- Tầm quan trọng của động cơ học tập;

- Ứng xử trên không gian mạng;

- Quan niệm về lòng vị tha;

- Thị hiếu của thanh niên ngày nay,...

Trả lời:

Trong thời đại ngày nay từ ngữ “thần tượng” đang là một hiện tượng xảy ra nhiều ở giới trẻ và trở thành một trào lưu gây sốt. Thần tượng mặc dù là điều quen thuộc trong cuộc sống, tuy nhiên để nhận biết được thế nào là đúng thế nào là không nên thì chưa chắc bạn trẻ nào cũng nhận ra.

Thần tượng là một hành động đam mê, ngưỡng mộ đến tôn thờ với một người nổi tiếng nào đó. Thần tượng cũng có thể hiểu là một hình mẫu lý tưởng đang hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật khiến người khác chạy theo, học hỏi, làm theo. Rất nhiều bạn trẻ hiện nay còn lấy “thần tượng” làm khuôn mẫu để mình phấn đấu trở thành như họ, nhưng họ lại không biết được “thần tượng” đó có thực sự ý nghĩa đối với bản thân hay không. 

 Việc mỗi người chúng ta có một thần tượng để học hỏi, noi theo thực sự là việc tốt. Họ là những con người có tài năng, có khả năng làm được những điều không phải ai cũng có thể làm được, chịu được những áp lực mà một người bình thường sẽ không bao giờ phải chịu. Họ đem hết ý chí, nghị lực của mình để theo đuổi ước mơ của mình, hoàn thành mục tiêu của cuộc đời mình. Ngưỡng mộ những thần tượng ấy không những chẳng sai mà lại càng cần thiết vì đó chính là tấm gương để phát triển và càng ngày càng hoàn thiện bản thân mình hơn. Những lan tỏa của họ lại chính là động lực để ta lan tỏa những điều tốt đẹp đến với cuộc sống, và chính bản thân ta cũng có niềm vui riêng khi theo đuổi một thần tượng.

Tuy nhiên, hiện tượng “thần tượng”, nhất ở giới trẻ, diễn ra theo cái cách làm nó biến chất đi. Nhiều người cuồng thần tượng đến mức mê muội, mù quáng, mất hết lý trí, cứ lao vào như một lẽ tự nhiên, quên ăn, quên ngủ, quên học, thậm chí “bơ” rất nhiều chuyện. Nhiều người hâm mộ sẽ dành thời gian để tìm hiểu tất cả từ các thông tin cá nhân đến những chi tiết riêng tư của thần tượng. Và tất nhiên, thời gian để họ “hâm mộ” những thứ khác là không có, trong khi thời gian để cuốn theo những hành động quá khích thì lại rất nhiều. Điều đáng tiếc nhất bản thân họ lại không nhận ra.

Thế giới ngày càng phát triển, trong số đó có không ít người đã tạo dựng nên cho mình một xu hướng riêng biệt tạo nên thành công cho chính mình. Những con người ấy là hình mẫu lý tưởng cho những người khác tin tưởng và noi theo. Thần tượng là thần tượng, còn thần tượng như thế nào lại nằm ở bản thân mỗi người, để bản thân có thể tự hào vì đã thần tượng một ai đó, không phải là góp phần biến khái niệm “thần tượng” ngày càng trở nên tiêu cực.