Slide bài giảng ngữ văn 8 kết nối bài 4: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)

Slide điện tử bài 4: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng). Kiến thức bài học được hình ảnh hóa, sinh động hóa. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của học môn Ngữ văn 8 Kết nối tri thức sẽ khác biệt

Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu

Tóm lược nội dung

TIẾNG VIỆT VIẾT

PHÂN TÍCH BÀI VIẾT THAM KHẢO 

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống 

CH1. Giới thiệu khái quát về tác giả và bài thơ.

Trả lời rút gọn:

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một thi sĩ sống ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, bà được mệnh danh là " Bà Chúa thơ Nôm", năm 2021 bà được UNESCO công nhận là " danh nhân văn hóa thế giới". 

Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống viết về bọn Thái thú phương Bắc, bọn tướng tá xâm lược của Thiên triều.

CH2. Phân tích nhan đề và đề tài. 

Trả lời rút gọn:

Trong bài thơ "Đề đền Sầm Nghi Đống", chữ "đề" trong nhan đề bài thơ thể hiện nét văn hóa đẹp 'tức cảnh sinh tình", ngẫu hứng làm thơ vịnh cảnh, cảm khái trước khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống đời thường. Bài thơ này viết về một tên tướng giặc bại trận phải tự vẫn, không được ngợi ca mà là bị đả kích, khinh thường

CH3. Phân tích nội dung trào phúng của bài thơ để làm rõ chủ đề. 

Trả lời rút gọn:

Hồ Xuân Hương tình cờ nhìn qua ngôi đền của tướng giặc, miệng mỉm cười khi thấy một tướng giặc bại trận phải tự vẫn đâu có được ngợi ca mà lại bị khinh thường. Ngôn từ và giọng điệu của bài thơ bỡn cợt, khinh thị, sắc nhọn. Một cái nhìn khinh dẻ, bằng nửa con mắt. Ngôi đền được tả thực bằng hai nét: mặt tiền là cái "bảng treo", thế đứng của nó rất "cheo leo", không uy nghi, vững vàng, lại heo hút! Những đền đài tráng lệ thường treo đại tự, hoành phi sơn son thiếp vàng, nhưng đền Sầm Nghi Đống chỉ có cái "bảng treo", tầm thường quá! Hai tiếng "Thái thú" là lời kết tội đối với bọn quan lại tướng tá Thiên Triều, biểu hiện sự khinh thường, châm biếm

CH4. Chỉ ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về nghệ thuật trào phúng. 

Trả lời rút gọn:

Từ "kìa" hàm ý chỉ trỏ, không giấu giếm sự bất kính với chốn đền miếu linh thiêng. Nữ sĩ ngắm cảnh nhưng không thèm lại gần. Từ "cheo leo" gợi ra vị trí xây dựng của ngôi đền (trên gò) và cảm giác không vững vàng. Đối với nữ thi sĩ, dù là một viên tướng được thờ phụng, dù là một ngôi đền được xây cao, trong mắt cô đó chỉ là thứ rẻ rúng, coi thường, và sự tôn nghiêm, thiêng liêng của ngôi đền đã biến mất sạch sẽ

CH5. Khẳng định giá trị, ý nghĩa của bài thơ. 

Trả lời rút gọn:

Đề đền Sầm Nghi Đống là tiếng cười trào phúng vừa sâu cay, vừa mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương dành cho một kẻ xâm lược, góp phần củng cố thêm lòng yêu nước trong mỗi người Việt Nam. Bài thơ đã cho thấy tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương - một nhà thơ hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu " Bà Chúa thơ Nôm". 

THỰC HÀNH VIẾT

Đề bài: Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng).

Trả lời rút gọn 1: 

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố ”trữ tình” và “hiện thực”,”Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có “thể thẳng tay đập vào mặt bọn thống trị những cái tát giáng trời:

“Ở phố Hàng Song thật lắm - quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn”

(Lắm quan)
Hồ Chí Minh mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thống trị trong hoàn cảnh gông xiềng. "Lai Tân" tố cáo một bộ máy thống trị đầy mâu thuẫn. Ba gương mặt tiêu biểu của chính quyền Tưởng Giới Thạch - “Ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” - được tác giả đặt liên tiếp, thể hiện sự cố tình và mô tả sống động. Đây là bức tranh thời sự chân thực, lạnh lùng, vẽ bằng nét bút bình thản.

Ban trưởng và cảnh trưởng là những công cụ thi hành pháp luật mạnh mẽ trong xã hội rối ren, xấu xa. Họ khoác áo "công lý" để làm những việc "bất công ly" hàng ngày. Dưới vỏ bọc của chức trách, họ thực hiện những hành vi phạm pháp tày trời. Tiếng cười trào lên từ những tình huống trớ trêu đó. Ban trưởng và cảnh trưởng, dưới vẻ bề ngoài, được tưởng là người công minh, nhưng thực ra lại là những kẻ tham nhũng, cờ bạc, gây rối. Họ tự phong cho mình quyền làm những gì họ muốn, khiến trật tự an ninh không được đảm bảo. Điều trớ trêu hơn, nhà tù trở thành nơi phạm tội phát triển mạnh mẽ nhất, với tội phạm cờ bạc là tiêu biểu, và thậm chí cả những người đứng đầu thống trị cũng tham gia vào những hành vi này.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”.

Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chân dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chính quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung). Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu Trả lời rút gọn là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Câu Trả lời rút gọn bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả “Lai Tân” đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng nói kéo dài bắc đầu từ chữ “vẫn” ấy.

Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lai Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thống trị chế độ Tưởng Giới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả “Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào.

Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa bỉ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lèn” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở “Lai Tân” mà ở rất nhiều bài thơ khác của “Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như “Trảng binh gia quyến”, “Đổ”, “Đổ phạm’. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đã đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đậm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Tú Xương cũng đã có một tiếng cười trào lộng: “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ấy cùng bình yên”. Tiếng cười dân tộc lan tỏa trong thơ trào phúng của Hồ Chí Minh, sâu cay nhưng hiện thực. "Lai Tân" tố cáo châm biếm cao độ, giúp ta hiểu xã hội Tưởng Giới Thạch và tâm hồn tài năng của Bác.