Giải VBT Ngữ văn 9 kết nối Bài 10: Đọc hiểu và thực hành tiếng Việt

Giải chi tiết VBT Ngữ văn 9 kết nối tri thức Bài 10: Đọc hiểu và thực hành tiếng Việt. Tech12h sẽ hướng dẫn giải tất cả câu hỏi và bài tập với cách giải nhanh và dễ hiểu nhất. Hi vọng, thông qua đó học sinh được củng cố kiến thức và nắm bài học tốt hơn.

BÀI 10: VĂN HỌC – LỊCH SỬ TÂM HỒN 

Bài tập 1 (trang 31):

Xây dựng mục tiêu đọc sách và danh mục các tác phẩm văn học tiêu biểu cần đọc trong 2 tuần thực hiện dự án Văn học – lịch sử tâm hồn.

Bài giải chi tiết:

* Tham khảo:

Để xây dựng mục tiêu đọc sách và danh mục các tác phẩm văn học cần đọc trong dự án Văn học – lịch sử tâm hồn, em cần lưu ý:

– Đọc kĩ yêu cầu cần đạt của bài học. Mục tiêu đọc sách của cá nhân cần phù hợp với mục tiêu chung đã được xác định. Trong dự án đọc sách này, các mục tiêu quan trọng cần hiện thực hoá là:

+ Vận dụng được một số hiểu biết về lịch sử văn học Việt Nam để đọc hiểu văn bản văn học. Từ mục tiêu này của bài học, cần lựa chọn được những tác phẩm văn học tiêu biểu, nhận biết được những vấn đề lịch sử văn học cơ bản liên quan và vận dụng được vào việc đọc hiểu hình thức, nội dung của tác phẩm văn học.

+ Sau khi đọc tác phẩm văn học, cần vận dụng hiểu biết về lịch sử văn học, đặc điểm nội dung và hình thức của tác phẩm văn học để có thể viết được bài quảng cáo về tác phẩm, kết hợp sử dụng phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ.

+ Từ những kết quả đọc và viết, vận dụng linh hoạt để tiến hành cuộc phỏng vấn ngắn về tác phẩm văn học (đề tài phù hợp).

– Dự án Văn học – lịch sử tâm hồn được thực hiện sau 9 bài học của Ngữ văn 9, do đó, việc xác định và thực hiện mục tiêu đọc sách, việc lựa chọn danh mục các tác phẩm văn học của mỗi cá nhân cần chú ý đến tính tương thích với các bài học trước đó về thể loại, chủ đề văn bản. Khác với các lớp trước, dự án đọc sách của Ngữ văn 9 tập trung vào tác phẩm văn học, do đó việc lựa chọn tác phẩm cần chú ý đến các vấn đề về lịch sử văn học: bối cảnh lịch sử, xã hội, nguồn gốc và đặc điểm thể loại, tác giả, tác phẩm tiêu biểu của từng thời kì, giai đoạn văn học. Có thể đưa vào danh mục những tác phẩm tiêu biểu của thời kì trung đại và thời kì hiện đại, tập trung vào những thành tựu nổi bật của mỗi thời kì: Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm khúc (nguyên tác của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm(?)), Truyện Kiều (Nguyễn Du),...; thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Quang Vũ,…

Bài tập 2 (trang 31):

Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:

GIỚI THIỆU NHỮNG KHÚC NGÂM

(1) Trong nền văn học quá khứ của dân tộc ta, truyện thơ và ngâm khúc là hai thành tựu rực rỡ, nổi bật hơn cả. Truyện thơ là những tác phẩm tự sự nhưng rất giàu tính chất trữ tình, được viết bằng thể lục bát, còn ngâm khúc là những tác phẩm hoàn toàn trữ tình, có thể gọi là những trường ca trữ tình, thì được viết bằng thể song thất lục bát. Cả hai thể thơ này đều là những thể thơ thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ ca dao dân gian.

(2) Ngâm khúc ra đời sau khi đã có thể song thất lục bát. Cho đến nay chúng ta chưa khẳng định được song thất lục bát xuất hiện vào thời gian nào. Chỉ biết đến đầu thế kỉ XVII Hoàng Sĩ Khải đã dùng thể thơ này để viết bản “Tứ thời khúc vịnh” gồm 340 câu. Với “Tứ thời khúc vịnh” thể song thất lục bát đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong số 85 khổ song thất lục bát thì có đến 54 khổ gieo vần ở chữ cuối câu bát khổ trên với chữ thứ ba câu thất khổ dưới. Lối gieo vần này làm cho âm hưởng của câu thơ có phần không được hài hoà. Nhưng lí do làm cho “Tứ thời khúc vịnh” không có một ảnh hưởng sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc thì chủ yếu không phải ở đó, mà ở chỗ tác giả chưa khai thác được đúng sở trường của thể thơ này. Thể song thất lục bát do đặc điểm kết cấu của nó, mỗi khổ gồm có hai câu bảy chữ, một cáu sáu chữ và một câu tám chữ, cứ thế lặp đi lặp lại và kéo dài không giới hạn. Khác với thể thơ lục bát, câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng nhịp điệu của nó khá đa dạng; thể song thất lục bát có hai câu song thất bao giờ cũng ngắt nhịp theo lối 3/4 (khác với thơ thất ngôn Đường luật ngắt 4/3) nên những khổ thơ song thất lục bát nối tiếp nhau tạo thành một âm hưởng có tính chất chu kì, và vì vậy, những bài thơ song thất lục bát càng kéo dài càng dễ có cảm giác đều đều và buồn. “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm vịnh về bốn mùa trong một năm, nhưng qua đó, tác giả nhằm ca ngợi nhà nước phong kiến lúc bấy giờ. [...] “Tứ thời khúc vịnh”, mặc dù tác giả đặt nhan đề như thế, nhưng chúng tôi không coi nó là tác phẩm mở đầu của thể loại ngâm khúc trong lịch sử, bởi vì “Tứ thời khúc vịnh” là một tác phẩm viết về thiên nhiên nhưng hoàn toàn vắng bóng cảm hứng trữ tình Trong “Tứ thời khúc vịnh” tính chất giáo huấn về đạo đức mới là cái cơ bản, chủ yếu Thể loại ngầm khúc thực sự ra đời không phải với “Tứ thời khúc vịnh” ở thế kỉ li với “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, và nhất là với bản dịch tác phẩm ấy ch Đoàn Thị Điểm ở giữa thế kỉ XVIII,

(3) “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm viết về tâm trạng đau buồn triền miên của một người vợ có chồng ra chiến trường. Nguyên tác của Đặng Trần Côn viết bằng ng Hán theo lối trường đoản cú, là một tác phẩm có tính chất tập cổ. Rất nhiều câu thơ trong tác phẩm này được lấy ra từ kho tàng thơ ca cổ đại Trung Hoa, có nhiên, tác giả có nhào nặn, có thêm thắt, sửa đổi. Nhưng với bản dịch bằng thể thơ song thất lục bát của Đoàn Thị Điểm thi khúc ca trữ tình này lần đầu tiên tìm được cái ám hướng thực sự phù hợp với nó. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn về sau con có nhiều bản dịch khác nữa cũng bằng thể song thất lục bát. Thậm chí hiếu bản dịch hiện hành là của Phan Huy Ích - nghĩa là bản dịch hay nhất – thì cũng không vì thế mà nó làm lu mờ vị trí lịch sử bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phải nói rằng chính bản dịch “Chinh phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm đã mở đầu cho việc sáng tác ngân khúc, sáng tác những trường ca trữ tình bằng thể song thất lục bát của dân tộc Sau bản dịch “Chính phụ ngâm khúc” của Đoàn Thị Điểm, hàng loạt những tác phẩm ngâm khúc khác lần lượt ra đời, đánh dấu một khuynh hướng phát triển mới của văn học dân tộc; “khuynh hướng đi sâu vào nội tâm con người”

(4) [...] Nhà nước phong kiến Việt Nam sau thời kỳ cực thịnh ở thế kỉ XV, đã dẫn xuống dốc. Trải qua các thế kỉ XVI, XVII đến giữa thế kỉ XVIII thì nhà nước này không phải chỉ suy thoái theo cái nghĩa thông thường, mà nó thực sự trở nên khủng hoảng, bế tắc [...] Quán chúng đói khổ đã vùng dậy đấu tranh chống lại, khởi nghĩa nông dân nó ra liên tiếp và có quy mô lớn. Ở các đô thị, nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh hỗn loạn đó không bị nhiều câu thúc, đã phát triển có phần thoải mái hơn trước, đã góp thêm gió vào cơn bão của thời đại. Và người ta thấy gì trong cơn bão ấy? Thấy kỉ cương của xã hội phong kiến bị phá vỡ, những ý tưởng thống trị xã hội hàng mấy trăm năm phút chốc bộc lộ tất cả sự giả dối và bất lực của nó. Chế độ phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã đề cao đạo đức và những thiết chế xã hội khác để ràng buộc con người phải phục tùng nó, thì bây giờ những đạo đức, thiết chế ấy không còn hiệu lực nữa Con người đã đứng cao hơn các thiết chế. “Người ta là hoa đất”, câu tục ngữ này rất có thể ra đời vào giữa thế kỉ XVIII; ở đây “người ta” vừa chỉ con người nói chung, đông thời cũng là chỉ những cá nhân con người cụ thể. Nét đặc trưng cơ bản của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là sự phát hiện ra con người, trong đó, cố nhiên có sự phát hiện ra con người cá nhân ở những mức độ nhất định. Sự phong phú có tính chất đột biến của văn học  giai đoạn này chính là bắt nguồn từ sự phát hiện đó. Trong văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có thể nói lần đầu tiên con người được đặt ra trong những quan hệ khá phong phú về mặt xã hội và trong những chiều sâu nội tâm của nó.

(Nguyễn Thạch Giang và nhóm biên khảo, Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1,

 NXB Giáo dục, 1994, tr. 7 – 11)

Bài tập 1 (trang 33):
Những phương diện nào của lịch sử thể loại ngâm khúc được trình bày trong văn bản?

Bài giải chi tiết:
Những phương diện của lịch sử thể loại ngâm khúc được trình bày trong văn bản là:

  • Nguồn gốc
  • Bối cảnh lịch sử và thời gian ra đời
  • Quá trình phát triển
  • Các điểm hình thức và cảm hứng chủ đạo

Bài tập 2 (trang 33):
Đặc điểm nổi bật về hình thức của thể loại ngâm khúc là gì?

Bài giải chi tiết:
Đặc điểm nổi bật về hình thức của thể loại ngâm khúc là đặc điểm cấu trúc của nó.

Bài tập 3 (trang 33):
Vì sao tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và đặc biệt là bản dịch Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm được xem là đánh dấu sự ra đời của thể loại ngâm khúc?

Bài giải chi tiết:
Chinh phụ ngâm không phải là tác phẩm đầu tiên của thể loại ngâm khúc. Tác phẩm đầu tiên của thể loại này được cho là Tứ thời khúc Vịnh. Tuy nhiên, đặc điểm hình thức và nội dung của Tứ thời khúc Vịnh chưa nổi bật, đặc biệt là "hoàn toàn vắng bóng cảm hứng trữ tình". Do đó, chỉ đến Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và bản dịch của Đoàn Thị Điểm thì "khúc ca trữ tình này lần đầu tiên tìm được cái âm hưởng thực sự phù hợp với nó". Thể thơ song thất lục bát được sử dụng để chuyển ngữ trong bản dịch của Đoàn Thị Điểm "đã mở đầu cho việc sáng tác ngâm khúc, sáng tác những trường ca trữ tình bằng thể song thất lục bát của dân tộc".

Bài tập 4 (trang 33):
Bối cảnh lịch sử gắn với thời gian ra đời của thể loại ngâm khúc có đặc điểm gì nổi bật? Đặc điểm này có liên quan như thế nào với đặc trưng cơ bản trong nội dung của văn học nói chung và thể loại ngâm khúc nói riêng?

Bài giải chi tiết:

  • Văn bản đã nêu rõ những thông tin về thời gian, hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm xã hội gắn với sự ra đời của thể loại ngâm khúc. Những thông tin đáng chú ý là:
    • Sự suy thoái của nhà nước phong kiến Việt Nam giữa thế kỉ XIII: “Nhà nước phong kiến Việt Nam sau thời kì cực thịnh ở thế kỉ XV, đã dần dần xuống dốc. Trải qua các thế kỉ XVI, XVII, đến giữa thế kỉ XVIII thì nhà nước này không chỉ suy thoái theo cái nghĩa thông thường, mà nó thực sự trở nên khủng hoảng, bế tắc”.

    • Sự xuất hiện các phong trào đấu tranh của quần chúng: “Quần chúng đói khổ đã vùng dậy đấu tranh chống lại, khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp và có quy mô lớn.”
    • Sự xuất hiện và phát triển của nền kinh tế đô thị: “Ở các đô thị, nền kinh tế hàng hoá trong bối cảnh hỗn loạn đó không bị nhiều câu thúc, đã phát triển có phần thoải mái hơn trước, đã góp thêm gió vào cơn bão của thời đại…”
  • Bối cảnh chính trị, xã hội, kinh tế với ba đặc điểm nổi bật nói trên dẫn đến sự thay đổi về ý thức xã hội, thay đổi về quan niệm đạo đức và giá trị của đời sống con người:
    “Và người ta thấy gì trong cơn bão ấy? Thấy kỉ cương của xã hội phong kiến bị phá vỡ, những ý tưởng thống trị xã hội hàng mấy trăm năm phút chốc bộc lộ tất cả sự giả dối và bất lực của nó. Chế độ phong kiến với ý thức hệ Nho giáo đã đề cao đạo đức và những thiết chế xã hội khác để ràng buộc con người phải phục tùng nó, thì bây giờ những đạo đức, thiết chế ấy không còn hiệu lực nữa. Con người đã đứng cao hơn các thiết chế. “Người ta là hoa đất, câu tục ngữ này rất có thể ra đời vào giữa thế kỉ XVIII; ở đây ‘người ta’ vừa chỉ con người nói chung, đồng thời cũng là chỉ những cá nhân con người cụ thể.”

  • Như vậy, con người, đặc biệt là con người cá nhân trở thành một giá trị được phát hiện, thừa nhận. Điều này có mối quan hệ mật thiết với việc thể hiện con người cá nhân với những cung bậc cảm xúc riêng tư, phong phú trong ngâm khúc nói riêng và văn học nói chung. Không có sự phát hiện và thừa nhận con người với đời sống cá nhân và chiều sâu nội tâm phong phú thì không có sự xuất hiện của ngâm khúc với “khuynh hướng đi sâu vào nội tâm con người”.

Đọc bài phỏng vấn sau và trả lời câu hỏi:

ĐIỀU GÌ THẬT NHẤT TRONG THƠ?

Một số độc giả nhỏ tuổi của “Văn học và Tuổi trẻ” đã gửi câu hỏi đến ban biên tập toà soạn với mong muốn được kết nối và trao đổi với nhà thơ Mai Văn Phấn (MVP) – tác giả bài thơ “Con chào mào”. Từ những câu hỏi của độc giả, phóng viên (PV) “Văn học và Tuổi trẻ” đã liên hệ và phỏng vấn nhà thơ để đi tìm câu trả lời cho những băn khoăn, thắc mắc: Liệu có một “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” thật không? Và điều gì mới là thật nhất trong thơ?...

PV: Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, là một tác giả luôn cách tân không mệt mỏi, luôn tìm kiếm những điều mới lạ trong thơ, có bao giờ ông nghĩ rằng những thay đổi liên tục để tạo nên sự khác biệt ấy khiến cho những bài thơ trở nên khó hiểu, khó cảm nhận đối với độc giả?

MVP: Sáng tạo là hành trình đi tìm những giá trị mới cùng những cách thể hiện mới lạ, độc đáo. Hành trình ấy nhằm mở rộng, làm phong phú thêm thế giới nghệ thuật thơ, đẩy xa hơn nữa đường biên của tưởng tượng, của cảm xúc. Mỗi bài thơ nên là một cuộc lên đường, mở ra hành trình mới. Và, tôi mong mỏi độc giả cũng tiếp nhận tác phẩm thơ bằng tinh thần ấy. Quá trình viết và đọc có thể giao thoa, cũng có thể lệch nhịp. Tuy nhiên, với cả người viết và người đọc, thơ ca tạo cho chúng ta cơ hội phát hiện, khám phá được điều kì diệu, mới mẻ trong một thế giới mà ta tưởng rằng mọi thứ đã trở nên quen thuộc, hoặc nhàm chán. Do vậy, cả người viết và người đọc nên cùng hướng về phía trước, chống lại những thói quen cũ kĩ. Ngay cả với những bài thơ được gọi là truyền thống, là kinh điển, với mỗi người đọc mới, với một lần đọc mới, cũng là một hành trình và thách thức mới. Với một nhà thơ, cách tân là cuộc lột xác nhọc nhằn, thì với độc giả, tiếp nhận những giá trị mới, khác lạ cũng là một hành trình không dễ dàng. Cho nên vượt qua được nỗi sợ sự “khó hiểu”, “khó cảm nhận” rồi thì cả người viết và người đọc đều chạm tới được những giá trị mới trong cảm xúc và nhận thức.

PV: Có ý kiến cho rằng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” trong bài thơ “Con chào mào” là không có thật, không có một con chào mào như vậy trong thiên nhiên. Phải chăng nhà thơ đã từng nhìn thấy con chào mào như vậy? Hay đây chỉ là một sự tưởng tượng phi thực tế?

MVP: Nếu ví thơ như cái cây thì rễ của nó nhất định phải bám vào đất mẹ – mảnh đất của hiện thực đời sống. Cái cây kia sống nhờ đất mà đơm hoa kết trái, hoa trái lại mang hình hài, sứ mệnh và giá trị của riêng nó. Thơ ca cũng tương tự như vậy, nó không sao chép, mô phỏng đời sống mà thăng hoa, phát sáng từ hiện thực bằng nghệ thuật ngôn từ. Để có được hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, tôi đã làm bạn với không biết bao nhiêu con chào mào, với nhiều loài chim kể từ khi tôi còn là một đứa trẻ. Rồi một hôm nghe như có tiếng con chào mào nào đó hót vang giữa không trung, trong tôi bỗng xuất hiện hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Hình ảnh ấy đã sáng lên trong tưởng tượng của tôi như một ngôi sao, như đốm lửa dẫn dắt tôi đến khi bài thơ kết thúc. Đơn giản là tôi nhận thấy vẻ đẹp đầy sức hút, rực rỡ và tươi mới trong hình ảnh “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”. Con chào mào đốm trắng mũ đỏ ở đây hay con phượng hoàng lửa trong câu chuyện cổ, con rồng trong văn hoá phương Đông,... vừa thực vừa không thực – như mọi hình tượng thơ. Nó bay và hót để nối liền bầu trời thực và bầu trời tưởng tượng trong đời sống của chúng ta.

PV: Hình như có một nhà thơ đã từng nói rằng khoảng cách giữa ngôn từ và hiện thực là một vực thẳm trong thơ. Điều này có làm cho thơ trở nên khó hiểu và khó đọc hay không?

MVP: Những ai đã từng thử làm một bài thơ đều thấy rằng thể hiện được hiện thực đời sống (bao gồm cả thế giới bên ngoài và thế giới tâm hồn bên trong con người bằng ngôn từ là điều khó khăn, thách thức. Không phải lúc nào người viết cũng tìm được hình thức ngôn từ phù hợp, đắc địa để biểu đạt được ý tưởng, hiện thực đời sống, hiện thực tinh thần. Tìm kiếm và gắn kết được hiện thực và ngôn ngữ thơ ca là một quá trình khổ công của người viết. Quả thực, nếu người viết không tìm được cách thể hiện hiện thực đời sống, hiện thực tâm hồn thì việc làm thơ còn khó khăn hơn vượt qua một vực thẳm. Việc giảm bớt sự ngăn cách của “vực thẳm” kia hoàn toàn phụ thuộc vào tài năng, vào quan niệm của người viết. Theo tôi, vươn tới sự giản dị, vận dụng tối đa cách nói đời thường cũng là một trong những thủ pháp làm cho thơ hiện đại đến gần hơn với người đọc. Vấn đề còn nằm ở sự tiếp nhận của người đọc nữa. Vì thế, rất cần sự đồng điệu, sáng tạo, thậm chí là đột phá của người đọc trong tiếp nhận thơ ca.

PV: Vậy theo nhà thơ, điều gì mới là thật nhất trong thơ? Cụ thể là trong bài thơ “Con chào mào”..

MVP: Trong sáng tạo thơ ca, ngoài chiều sâu văn hoá và bút pháp vững vàng, điều quan trọng nhất với nhà thơ là nguồn cảm hứng mãnh liệt, xuyên suốt trong khi viết. Cảm xúc chi phối sự lựa chọn hình tượng, ngôn từ. Cảm xúc là điều thật nhất và tác động mạnh mẽ nhất đến sự thể hiện hình tượng. Cảm xúc dẫn dắt và giúp nhà thơ bộc lộ hết khả năng sáng tạo, khơi lộ được vẻ đẹp tâm hồn mình để dựng lên một hình tượng thơ. Cảm xúc thật thì hình tượng thật, dù hình tượng ấy được thể hiện bằng bút pháp nào. Bài thơ “Con chào mào” của tôi được viết trong trạng thái như vậy. Nó là sự kết tụ vẻ đẹp, sức sống bất diệt của thiên nhiên mà tôi đã được trải nghiệm, và giờ đây càng muốn gìn giữ, bảo vệ. Vì thế, “con chào mào đốm trắng mũ đỏ”, “khung nắng khung gió”, “nhành cây xanh... và cả cái trạng thái “hối hả đuổi theo”. với tôi, đều là thật, đó là tình yêu mà tôi dâng tặng cho thiên nhiên, cho những vẻ đẹp tự do, như nó vốn có, không sở hữu và không thể trói buộc, dù dưới bất kì hình thức nào. Nhưng nó vẫn là trong tôi, vẫn ngân lên như tiếng hót và bay vút trong không gian xanh...

PV: Những điều nhà thơ chia sẻ thật ý nghĩa và thú vị. Qua đó, độc giả nhỏ tuổi hẳn sẽ cảm thấy bài thơ “Con chào mào” gần gũi, dễ tiếp nhận hơn. Đồng thời, các bạn ấy cũng có thể hiểu thông điệp mà nhà thơ gửi gắm qua hình tượng “con chào mào đốm trắng mũ đỏ” để biết trân trọng hơn vẻ đẹp của sự sống, của thiên nhiên quanh ta. Xin trân trọng cảm ơn nhà thơ!

(Theo Hà Ngân, Văn học và Tuổi trẻ, tháng 12/2023)

Bài tập 1 (trang 35):
Mục đích của cuộc phỏng vấn là gì? Những dấu hiệu nào trong văn bản giúp em nhận biết được mục đích của người phỏng vấn?

Bài giải chi tiết:

  • Mục đích của cuộc phỏng vấn là giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của bạn đọc nhỏ tuổi về hình tượng con chào mào trong bài thơ Con chào mào và từ đó tìm hiểu quan điểm của nhà thơ về vấn đề “Điều gì thật nhất trong thơ?”.
  • Những dấu hiệu trong văn bản giúp nhận biết mục đích của người phỏng vấn là: phần nhan đề và sa-pô.

Bài tập 2 (trang 35):
Vấn đề chính mà cuộc phỏng vấn đề cập được trình bày tường minh ở phần nào của văn bản?

Bài giải chi tiết:
Vấn đề chính mà cuộc phỏng vấn đề cập được trình bày tường minh ở phần nhan đềsa-pô (khi bài phỏng vấn đã được ghi chép lại và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phỏng vấn, vấn đề chính cần phải hướng tới người được phỏng vấn, do vậy, vấn đề đó trước tiên phải được nêu tường minh trong các câu hỏi phỏng vấn. Câu trả lời của người được phỏng vấn cũng phải làm rõ cho vấn đề được đề cập.

Bài tập 3 (trang 35):
Hệ thống câu hỏi mà người phỏng vấn nêu ra có mối quan hệ như thế nào với mục đích và vấn đề chính của cuộc phỏng vấn?

Bài giải chi tiết:
Hệ thống câu hỏi trong cuộc phỏng vấn cần liên quan trực tiếp đến vấn đề đã nêu và cụ thể hoá cho vấn đề đó, nhằm giúp người được phỏng vấn tìm được câu trả lời chứa thông tin tương thích, phù hợp.

Cụ thể, trong cuộc phỏng vấn này, vấn đề “Liệu có một con chào mào đốm trắng mũ đỏ thật không? Và điều gì là thật nhất trong thơ?” được triển khai thành 4 câu hỏi với nội dung và vai trò cụ thể như sau:
Câu hỏi thứ nhất: Phóng viên mở đầu và dẫn vào vấn đề chính từ một quy luật chung thường gặp trong quá trình đọc, cảm nhận thơ nói riêng và văn học nói chung: Những điều mới lạ (ngôn ngữ, hình ảnh) trong thơ (như bài Con chào mào của Mai Văn Phấn hoặc những cách tân khác của nhà thơ) liệu có làm cho người đọc khó hiểu, khó cảm nhận?
Câu hỏi thứ hai: Nêu trực tiếp vấn đề “Liệu có một con chào mào đốm trắng mũ đỏ thật không?” nhưng có sự dẫn dắt và diễn giải cụ thể từng bước để gợi câu trả lời tương thích.
Câu hỏi thứ ba: Phát triển và liên kết vấn đề: từ hình tượng con chào mào đến vấn đề ngôn ngữ và hiện thực, hiện thực và tưởng tượng trong thơ. Phải có câu hỏi thứ ba thì người phỏng vấn mới dẫn dắt được đến câu hỏi cuối cùng, đề cập trực tiếp vấn đề quan trọng nhất: Điều gì là thật nhất trong thơ?
Câu hỏi cuối cùng: Hướng thẳng tới vấn đề chính và kết nối giữa vấn đề cụ thể là hình tượng con chào mào trong bài thơ Con chào mào của Mai Văn Phấn với vấn đề mang tính khái quát là đặc điểm của cảm xúc và hình tượng trong thơ nói chung.

Bài tập 4 (trang 35):
Câu trả lời của người được phỏng vấn có quan hệ như thế nào với vấn đề được nêu trong câu hỏi?

Bài giải chi tiết:
Câu trả lời cần phù hợp với vấn đề được nêu trong câu hỏi, hướng thẳng tới việc làm rõ những thông tin cần giải đáp. Đây cũng là yêu cầu quan trọng đối với câu trả lời của người được phỏng vấn nói chung.

Bài tập 5 (trang 36):
Những yếu tố ngôn ngữ nào thể hiện phép lịch sự và ý thức tôn trọng người được phỏng vấn trong cách mở đầu, triển khai và kết thúc cuộc phỏng vấn?

Bài giải chi tiết:
Để thực hiện được mục đích của cuộc phỏng vấn, ngoài những câu hỏi nêu vấn đề, triển khai vấn đề, những yếu tố ngôn ngữ thể hiện phép lịch sự và ý thức tôn trọng người được phỏng vấn khi bắt đầu, triển khai và kết thúc cuộc phỏng vấn là rất quan trọng, giúp cho cuộc phỏng vấn thành công. Trong cuộc phỏng vấn này, có thể xác định các yếu tố ngôn ngữ đó là:
– Sử dụng cách thưa gửi lịch sự ở phần mở đầu cuộc phỏng vấn: “Thưa nhà thơ Mai Văn Phấn, vậy theo nhà thơ,...”
– Sử dụng thành phần tình thái khi đặt câu hỏi khiến câu hỏi trở nên uyển chuyển và không mang tính chất áp đặt: “Có bao giờ ông nghĩ rằng...”, “Phải chăng…”, “Hình như...”
– Sử dụng lời khen, lời cảm ơn một cách phù hợp khi kết thúc cuộc phỏng vấn.

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm:

Giải VBT Ngữ văn 9 kết nối tri thức , Giải VBT Ngữ văn 9 KNTT, Giải VBT Ngữ văn 9 Bài 10: Đọc hiểu và thực hành tiếng

Bình luận

Giải bài tập những môn khác