Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử


Nếu nhà thơ Xuân Diệu được nhận xét là “Nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới”, Huy Cận được gọi là “Nhà thơ Cổ điển nhất trong các nhà thơ Mới”, thì Hàn Mặc Tử lại được mệnh danh là “Nhà thơ Lạ nhất trong các nhà thơ Mới”. Có thể nói, Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ vô cùng đặc biệt trong văn đàn Việt Nam, và điều đó đã được thể hiện thông qua Đây thôn Vĩ Dạ - thi phẩm chất chứa những nỗi lòng của nhà thơ. 

Hàn Mặc Tử có một số phận đau thương và bất hạnh đến nghiệt ngã. Cha mất sớm, ông ở với mẹ tại Quy Nhơn. Năm 24 tuổi (1936), ông mắc bệnh phong, về hẳn Quy Nhơn để chữa trị. Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ: chỉ 28 tuổi (1940). Những nghiệt ngã của số phận đã ảnh hưởng rất lớn đến hồn thơ của ông. Hàn Mặc Tử là nhà thơ có hồn thơ mãnh liệt, gắn bó tha thiết với cuộc đời. Ông được đánh giá là một trong ba đỉnh cao của Thơ Mới. 

Khi ông đang trên đà phát triển sự nghiệp thì lại phát hiện ra mình bị mắc bệnh phong. Khi nghe tin, Hoàng Thị Kim Cúc - một người ông từng đơn phương - đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu thiếp có hình thôn Vĩ Dạ. Có thể nói, tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà đã gợi nên cảm hứng để nhà thơ viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu cuộc sống của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, khi tìm hiểu bài thơ này, ta không nên xoáy sâu vào mối tình đơn phương của nhà thơ mà chỉ xem đó là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

Khổ 1 của bài thơ hiện ra với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ lúc ban mai. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ kết hợp với cách gieo vần bằng một loạt thanh bằng, vừa như lời trách móc, hờn dỗi, vừa như lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ dành cho chàng trai. Nhưng đó cũng có thể là lời tự vấn bản thân vì sao lại không về thăm thôn Vĩ. Dù là cách hiểu nào đi nữa, thì đó cũng là ao ước thầm kín, là niềm khao khát được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa. Cảnh thôn Vĩ được hiện ra theo dòng tâm tưởng của nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. Nhà thơ đã sử dụng từ “mướt” và tình thái từ “quá” để như một lời ngưỡng vọng, mê say cho khu vườn mượt mà, óng ánh. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như lời cảm thán, khu vườn này là của ai, hẳn nhà thơ cũng không còn nhớ nữa, chỉ nhớ rằng khu vườn ấy đẹp quá, nắng treo cao rọi xuống cây cu, len lỏi lên từng ngõ ngách trong khu vườn, làm nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng ban mai. Một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mặt chữ điền là mặt của ai? Đó là mặt của người dân thôn Vĩ, gương mặt của cô gái trong tâm tưởng, hay là khuôn mặt của chính tác giả? Tự tác giả đã phân thân để trở về với khu vườn chăng? Dù là cách hiểu nào đi nữa, đó cũng là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Gương mặt ấy còn được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế và bóng hình của con người trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Thông qua bức tranh thiên nhiên, tác giả như bộc lộ niềm khát khao gặp gỡ, hòa cảm với cái đẹp nơi trần thế.

Từ bức tranh ban mai tinh khôi trong khổ 1, tác giả đã chuyển hướng điểm nhìn sang bức tranh sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng. Điểm nhìn đã thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyền ảo. Sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hình ảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” là một sự tách rời phi lí và ngang trái. Tác giả đã nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Tác giả còn nhân hóa dòng nước để nhấn mạnh nỗi buồn, bên cạnh sự phiêu tán, ra đi, lưu luyến vô vọng. Chủ thể trữ tình dường như cảm thức được thân phận bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Ngoài ra, nhịp điệu cũng trở nên khác thường khi sử dụng nhịp 4/3. Mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn. Tác giả phải thốt lên:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Từ “tối nay” như là hiện thực nghiệt ngã. Mặc cảm chia lìa đã thấm đẫm vào vạn vật. Nhưng dường như khao khát níu giữ của nhà thơ vẫn còn tồn tại, bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”..., từ “kịp” thì mang cảm giác phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó đầy đau thương, mãnh liệt mà vô vọng.

Bức tranh tâm trạng của tác giả hiện ra thông qua khổ 3:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Tác giả dường như đang rơi vào trạng thái vô thức, chìm vào cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được. Ở đây, tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng đến một cách kì lạ và bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa, mà là màu của tâm tưởng. 

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Ở đây” dường như là hiện thực, là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Đó là bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia. Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần như tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Câu hỏi tu từ mang một tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Đó là tâm hồn đang khao khát được yêu, khao khát sự đồng điệu, đồng cảm. 

Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ xuất sắc về mặt nội dung, mà còn thể hiện được sự tài hoa của Hàn Mặc Tử thông qua nghệ thuật của tác phẩm. Hình ảnh thơ vô cùng độc đáo, gợi cảm. Ngôn ngữ thơ trong sáng, tinh tế, giàu liên tưởng. Âm điệu, nhịp thơ thì tinh tế, thiết tha. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liên tưởng, biện pháp so sánh, nhân hóa, hoán dụ. Âm điệu hỏi bao trùm bài thơ, mang lại sự ám ảnh và tha thiết của một hồn thơ đầy khát khao với cuộc đời.

Để kết thúc bài viết này, xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên để nói lên sự tài hoa của Hàn Mặc Tử: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình. Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử.”


Trắc nghiệm ngữ văn 11: bài Đây thôn Vĩ Dạ (P2)
Từ khóa tìm kiếm Google: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử, Soạn văn 11 bài: Đây thôn vĩ dạ trang 38 sgk

Bình luận

Giải bài tập những môn khác