Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn 9 KNTT: Đề tham khảo số 3
Trọn bộ Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn 9 KNTT: Đề tham khảo số 3 bộ sách mới Kết nối tri thức gồm nhiều câu hỏi ôn tập hay, các dạng bài tập phong phú giúp các em củng cố ôn luyện lại kiến thức thật tốt chuẩn bị tốt cho kì thi sắp tới. Tài liệu có kèm theo đáp án và lời giải chi tiết. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em đạt điểm cao. Thầy cô và các em kéo xuống để tham khảo ôn luyện
ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ 2
NGỮ VĂN 9 – KẾT NỐI TRI THỨC VÀ CUỘC SỐNG
PHẦN ĐỌC HIỂU (4.0 điểm)
Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:
Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ
Người ta thường nói: "Chế độ thực dân là ăn cướp". Chúng tôi xin thêm: là hiếp dâm và giết người. Dưới đầu đề: "Bọn thực dân kẻ cướp", Víchto Mêrích đã kể lại một hành vi bạo ngược không thể tưởng tượng được của một viên quan cai trị thuộc địa nọ: hắn đổ nhựa cao su vào âm hộ của một phụ nữ da đen. Sau đó, hắn bắt chị ta đội một tảng đá to tướng đứng phơi nắng cho đến chết. Tên viên chức dâm bạo ấy hiện đang tiếp tục lập công ở một địa phương khác.
Khốn thay, những hành vi bỉ ổi như thế lại không hiếm gì ở cái nơi mà làng báo bồi bút thường gọi là “nước Pháp hải ngoại”. Tháng 3 năm 1922, một nhân viên nhà đoan ở Bà Rịa (Nam Kỳ) đã đánh gần chết một phụ nữ An Nam làm phu đội muối, lấy cớ chị đã làm ồn ào dưới hiên nhà hắn làm hắn mất giấc ngủ trưa. Tuyệt hơn nữa là người phụ nữ ấy còn bị đe doạ đuổi khỏi công trường muối nếu chị kêu kiện. Tháng 4, một nhân viên nhà đoan khác đến thay, cũng tỏ ra xứng đáng với tên trước bởi những hành vi tàn ác của hắn.
………………….
Thói dâm bạo thực dân là hiện tượng phổ biến và tàn ác không thể tưởng tượng được. ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra một vài việc mà những nhân chứng không thiên vị đã trông thấy và kể lại, để các chị em phương Tây hiểu rõ giá trị của cái gọi là "sứ mạng khai hoá" và nỗi đau khổ của chị em mình ở thuộc địa.
Một người ở thuộc địa kể lại rằng: Khi bọn lính kéo đến, tất cả dân chúng đều chạy trốn, chỉ còn lại hai cụ già, một thiếu nữ, một thiếu phụ đang cho đứa con mới đẻ bú và tay dắt một em gái lên tám. Bọn lính đòi tiền, rượu và thuốc phiện. Vì không ai hiểu tiếng Pháp nên chúng nổi giận, lấy báng súng đánh chết một cụ già. Còn cụ già kia thì bị hai tên lính, khi đến đã say mềm, đem thiêu sống trong một đống lửa hàng mấy giờ liền để làm trò vui với nhau. Trong khi đó thì những tên khác thay phiên nhau hiếp cô thiếu nữ, người mẹ và đứa con gái nhỏ của bà. Xong, chúng vật ngửa cô thiếu nữ ra, trói lại, nhét giẻ vào miệng, rồi một tên cầm lưỡi lê đâm vào bụng cô, chặt ngón tay cô để lấy chiếc nhẫn và cắt đầu cô để lột cái vòng cổ.
Trên đám đất bằng phẳng trước kia là ruộng muối, ba cái xác chết nằm đó: một em bé bị lột trần truồng, một thiếu nữ ruột gan lòi ra, cánh tay trái cứng đờ giơ nắm tay lên chĩa vào ông trời vô tình, một xác cụ già ghê rợn khủng khiếp, thân thể trần truồng, mặt mũi cháy không nhận ra được nữa, mỡ chảy lênh láng đã đông lại da bụng phồng lên, láng xầy, vàng óng như da lợn quay.
Buổi tối hôm đánh chiếm Chợ Mới (Bắc Kỳ), một sĩ quan của tiểu đoàn châu Phi còn thấy một người tù khoẻ mạnh, không thương tích. Sáng hôm sau, viên sĩ quan ấy đã thấy anh ta bị thiêu chết, mỡ chảy nhầy nhụa, da bụng phồng lên và vàng ánh. Đó là vì một bọn lính đã suốt đêm thui con người tay không ấy, trong khi bọn khác hành hạ một phụ nữ.
Một tên lính buộc một người phụ nữ An Nam phải hiến thân cho con chó của hắn. Chị không chịu. Hắn liền đâm một nhát lưỡi lê vào bụng chị, chết tươi. Cũng vẫn người ấy kể lại: “Một ngày lễ nọ, một tên lính trong cơn vui, tự nhiên vô cớ nhảy bổ vào một bà già người An Nam, lấy lưỡi lê đâm bà một nhát chết ngay.” Một tên lính làm vườn nhìn thấy một toán người, nam có, nữ có, đi vào vườn hắn lúc mười giờ sáng. Đó là những người trồng rau hiền lành, tò mò muốn xem vườn. Nhưng tên lính đã lấy súng săn bắn xả vào họ, làm chết hai thiếu nữ. Một nhân viên nhà đoan đòi vào nhà một người bản xứ, chủ nhà không chịu, hắn bèn đốt nhà, và đánh gãy chân chị vợ chủ nhà giữa lúc chị này bị khói xông mờ mắt, dắt con chạy ra để khỏi chết cháy".
Thói dâm bạo vô độ của bọn xâm lược thật không có giới hạn nào cả. Cái tinh vi của một nền văn minh khát máu cho phép chúng tưởng tượng được đến đâu thì chúng cứ thực hiện tính tàn ác lạnh lùng của chúng đến đó.
Thuế má nặng nề không phải chỉ đánh vào ruộng đất, vào súc vật và vào nam giới mà thôi, mà cái ơn mưa móc ấy còn tưới rộng ra cho cả nữ giới nữa: Nhiều phụ nữ bản xứ khốn khổ, phải mang nặng gông xiềng đi quét đường chỉ vì một tội là không nộp nổi thuế. Trong tất cả những cố gắng của các nhà khai hoá nhằm làm cho nòi giống An Nam lành mạnh hơn và đưa họ lên con đường tiến bộ, phải kể đến việc cưỡng bức mua rượu ty. Không sao kể xiết tất cả sự nhũng lạm chung quanh việc bán rượu, một thứ thuốc độc dùng để pha chế thế nào cho người ta nuốt trôi được cái món "dân chủ".
Trên kia chúng tôi đã nói rõ rằng, để nuôi béo bọn cá mập ở chính quốc, cái chính phủ đầy tội ác ở Đông Dương đã cho phép bọn tôi tớ của nó bắt đàn bà, trẻ con không uống rượu cũng phải mua rượu. Muốn làm vừa ý bọn độc quyền, người ta đặt ra những luật lệ để trừng trị việc nấu và buôn rượu lậu; người ta đặt lên đầu người dân bản xứ cả một lô đủ thứ hình phạt; người ta cấp vũ khí cho nhân viên nhà đoan. Bọn này có quyền xông xáo vào nhà cửa, ruộng vườn của tư nhân.
Không phải chỉ có những cuộc khám nhà hàng loạt, liên tục, mà còn có những cuộc khám xét thân thể người bản xứ bất kể ở chỗ nào, bất kể là nam hay nữ. Nhân viên nhà đoan vào nhà người bản xứ, bắt đàn bà, con gái cởi hết áo quần trước mặt chúng, và khi họ đã trần truồng như nhộng thì chúng giở trò dâm đãng kỳ quặc đến mức đem cả con dấu nhà đoan đóng lên người họ.
Ôi! Hỡi những người mẹ, những người vợ, những người phụ nữ Pháp, chị em nghĩ gì về tình trạng đó? Và các bạn, những người con, những người chồng, những anh em người Pháp nữa? Có phải đó là phép lịch sự của người Pháp đã bị "thực dân hoá" đi không nhỉ?
Nhiệt tình của người An Nam đối với nền giáo dục hiện đại làm cho chính phủ bảo hộ lo sợ. Bởi thế, chính phủ đóng cửa các trường làng, biến trường học thành chuồng ngựa cho các quan nhà binh, đuổi học trò và bỏ tù thầy giáo. Một cô giáo bản xứ đã bị bắt giải về tỉnh lỵ, cổ đeo gông, đầu phơi trần dưới ánh nắng như thiêu đốt.
Một viên chánh quản pháo binh, đã đốt nhà một phụ nữ An Nam, vì người ấy không chịu tiếp hắn vào lúc nửa đêm. Một viên quan hai có nhiều vợ đã quật ngã một thiếu phụ An Nam và dùng gậy song đánh chị đến chết chỉ vì chị không chịu làm vợ lẽ hắn. Một sĩ quan khác hiếp một em bé gái bằng những cách dâm bạo vô cùng ghê tởm. Bị truy tố trước toà đại hình, hắn được trắng án, chỉ vì nạn nhân là người An Nam.
Trong tất cả các bài diễn văn, tất cả các bản báo cáo ở khắp những nơi mà các nhà cầm quyền của chúng ta có dịp mở miệng, và có bọn ngốc ngồi nghe, họ luôn luôn khẳng định rằng, chỉ có nước Đức dã man mới là đế quốc, là quân phiệt, còn nước Pháp, cái nước Pháp yêu hoà bình, nhân đạo, cộng hoà và dân chủ, cái nước Pháp mà họ đại diện thì không phải là đế quốc, cũng không phải là quân phiệt. ồ! hoàn toàn không phải! Nếu chính các nhà cầm quyền ấy đưa binh lính - là con em công nhân hay chính là công nhân - đi giết hại những công nhân ở các nước khác, thì đó chẳng qua là để dạy cho những người này biết sống cho tốt mà thôi!
(Trích chương 11, Bản án chế độ thực dân Pháp – Hồ Chí Minh)
Câu 1 (0.5 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2 (0.5 điểm): Nêu phong cách ngôn ngữ trong đoạn trích trên?
Câu 3 (1.0 điểm): Tác giả đã chỉ ra những hành vi tàn bạo nào của chế độ thực dân Pháp đối với người phụ nữ bản xứ?
Câu 4 (1.0 điểm): Theo tác giả, sự khổ nhục của người phụ nữ bản xứ phản ánh điều gì về bản chất của chế độ thực dân Pháp?
Câu 5 (1.0 điểm): So sánh cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội thực dân với phụ nữ bây giờ tại nước ta. Từ đó nêu suy nghĩ, cảm xúc của em về người phụ nữ xưa trong xã hội thực dân.
B. PHẦN VIẾT (6.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm): Viết đoạn văn 200 từ trình bày cảm nhận của anh/ chị về việc sử dụng văn chương làm phương tiện đấu tranh chống lại áp bức, bất công như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm.
Câu 2 (4.0 điểm): Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về trách nhiệm của học sinh trong việc sẻ chia với cộng đồng xã hội. \
TRƯỜNG THCS ........
HƯỚNG DẪN CHẤM KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ 2 (2024 – 2025)
MÔN: NGỮ VĂN 9 – KẾT NỐI TRI THỨC VÀ CUỘC SỐNG
A. PHẦN ĐỌC HIỂU: (4.0 điểm)
Câu | Đáp án |
Câu 1 |
|
Câu 2 | - Đoạn trích sử dụng phong cách ngôn ngữ chính luận. |
Câu 3 | Hành vi tàn bạo của chế độ thực dân Pháp đối với người phụ nữ bản xứ: + Hành hạ thân thể (đổ nhựa cao su vào âm hộ, đánh đập, thiêu sống). + Xâm hại tình dục (hiếp dâm phụ nữ, ép buộc làm việc trái đạo đức, dâm bạo). + Bóc lột sức lao động (đánh đập, bắt gánh vác gánh nặng thuế má). + Làm nhục và hủy hoại phẩm giá (khám xét, bêu xấu, đóng dấu lên người). |
Câu 4 | Sự khổ nhục của người phụ nữ bản xứ phản ánh bản chất của chế độ thực dân Pháp: + Chế độ thực dân Pháp mang bản chất tàn bạo, phi nhân tính, dùng bạo lực và bóc lột để thống trị. + Lợi dụng danh nghĩa “khai hóa văn minh” để che đậy những hành động vô nhân đạo như giết người, hiếp dâm, bóc lột kinh tế, hủy hoại phẩm giá con người. |
Câu 5 | * So sánh cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội thực dân với phụ nữ hiện nay: - Phụ nữ trong xã hội thực dân: + Chịu nhiều đau khổ, bị áp bức, bóc lột, nhục mạ về thể xác và tinh thần. + Không có quyền tự do, bị coi rẻ và coi như công cụ phục vụ cho chế độ cai trị thực dân. + Cuộc sống vô cùng tăm tối, khốn khổ, không có quyền đấu tranh bảo vệ mình. - Phụ nữ hiện nay: + Được hưởng quyền bình đẳng và tự do trong xã hội. + Có cơ hội học tập, làm việc, đóng góp cho đất nước và được tôn trọng. + Nhiều phụ nữ còn giữ vai trò lãnh đạo và tiên phong trong nhiều lĩnh vực. * Suy nghĩ và cảm xúc về người phụ nữ xưa: - Xót thương và cảm phục trước sự kiên cường, cam chịu của những người phụ nữ trong xã hội thực dân. Họ phải chịu đựng nỗi đau đớn thể xác và tinh thần không gì bù đắp được. - Căm phẫn và phẫn nộ trước sự tàn bạo, phi nhân tính của chế độ thực dân đã chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của phụ nữ. - Tự nhắc nhở bản thân phải biết trân trọng cuộc sống hòa bình, tự do ngày hôm nay và nỗ lực học tập, rèn luyện để xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ đi trước. |
B.PHẦN VIẾT: (6.0 điểm)
Đáp án |
Câu 1: HS trình bày cảm nhận dựa trên suy nghĩ của mình song cần đảm bảo các ý sau:
+ Đúng độ dài 200 từ. + Đảm bảo bố cục 3 phần. + Không sai chính tả, lặp từ….
+ Văn chương phản ánh hiện thực xã hội:
+ Văn chương khơi dậy tinh thần đấu tranh:
+ Tác động sâu rộng của văn chương cách mạng:
+ Liên hệ với các nhà văn, nhà thơ như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đã dùng văn chương để truyền tải tinh thần cách mạng, phản ánh sự bất công của xã hội thực dân, đế quốc. + Có thể liên hệ với hiện nay: Trong thời hiện đại, văn học, báo chí và nghệ thuật vẫn tiếp tục vai trò lên tiếng cho những bất công, như vấn đề phân biệt giới tính, bảo vệ môi trường, và chống lại chiến tranh. |
Câu 2:
Cấu trúc bài cần nêu được đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận. |
Viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) bày tỏ ý kiến của anh/chị về trách nhiệm của học sinh trong việc sẻ chia với cộng đồng xã hội. Hướng dẫn chấm:
|
HS có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ lí lẽ và dẫn chứng. Dưới đây là một số gợi ý cần hướng tới:
– Đặt vấn đề. 2. Thân bài - Giải thích: + Sẻ chia cộng đồng là gì? là hành động giúp đỡ người khác bằng cả tấm lòng, không vụ lợi, không đòi hỏi nhận lại. => Sẻ chia với cộng đồng là một hành động ý nghĩa, là sự cho đi, cho đi của cải vật chất, cho đi tình yêu thương hoặc đơn giản là những lời động viên, an ủi kịp thời với những con người kém may mắn trong xã hội. - Bàn luận: + Sẻ chia cộng đồng giúp bản thân chúng ta sẽ cảm hài lòng, thanh thản và hạnh phúc trong tâm hồn. + Tạo ra một ý nghĩa sâu sắc trong cuộc sống và cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc không thể đạt được từ việc chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân. + Khi ta giúp đỡ một ai đó, họ sẽ cảm thấy họ được đồng cảm, được lắng nghe và từ đó họ được an ủi phần nào, vơi bớt đi những gánh nặng tinh thần đang đè nén họ. + Việc sẻ chia tạo ra một môi trường giao tiếp và gắn kết tốt hơn giữa các thành viên trong cộng đồng. + Sẻ chia giúp giảm bớt khoảng cách xã hội và xóa bỏ sự bất công. + Niềm tin và sự đoàn kết trong cộng đồng được phát triển mạnh mẽ hơn và mở rộng ra là đất nước sẽ ngày càng văn minh, tiến bộ. - Bài học nhận thức, hành động: * Về nhận thức: + Nhận thức về tầm quan trọng của việc tình nguyện và sẵn lòng đóng góp thời gian, năng lực và kiến thức của mình vào các hoạt động cộng đồng. + Hiểu rõ về quyền và trách nhiệm của mình như một công dân trong xã hội. + Trách nhiệm tham gia tích cực vào các vấn đề xã hội, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chung của cộng đồng, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến giáo dục, môi trường, an sinh xã hội, sức khỏe và phát triển bền vững. * Về hành động: + Tham gia vào các hoạt động như giúp đỡ các nhóm thiếu nhi, dọn vệ sinh môi trường, tham gia công tác từ thiện, hoặc hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người già. + Chia sẻ kiến thức và kỹ năng của mình với cộng đồng: giúp đỡ các bạn cùng lớp trong việc học tập, chia sẻ thông tin hữu ích về sức khỏe, giáo dục, hoặc các vấn đề xã hội trên mạng xã hội. + Tham gia vào các dự án giáo dục cộng đồng, giúp đỡ những người khác học hỏi và phát triển.
– Khẳng định lại vấn đề. Hướng dẫn chấm: - Phân tích đầy đủ, sâu sắc, dẫn chứng phù hợp, thuyết phục: 2 điểm. - Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu: 1 điểm – 1.75 điểm. - Phân tích chung chung, sơ sài: 0.5 - 1.0 điểm. |
d. Chính tả, ngữ pháp Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp Tiếng Việt. Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp. |
e. Sáng tạo - Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới mẻ. |
Đề thi Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, trọn bộ đề thi Ngữ văn 9 Kết nối tri thức, Đề thi giữa kì 2 Ngữ văn 9
Giải bài tập những môn khác
Môn học lớp 9 KNTT
5 phút giải toán 9 KNTT
5 phút soạn bài văn 9 KNTT
Văn mẫu 9 kết nối tri thức
5 phút giải KHTN 9 KNTT
5 phút giải lịch sử 9 KNTT
5 phút giải địa lí 9 KNTT
5 phút giải hướng nghiệp 9 KNTT
5 phút giải lắp mạng điện 9 KNTT
5 phút giải trồng trọt 9 KNTT
5 phút giải CN thực phẩm 9 KNTT
5 phút giải tin học 9 KNTT
5 phút giải GDCD 9 KNTT
5 phút giải HĐTN 9 KNTT
Môn học lớp 9 CTST
5 phút giải toán 9 CTST
5 phút soạn bài văn 9 CTST
Văn mẫu 9 chân trời sáng tạo
5 phút giải KHTN 9 CTST
5 phút giải lịch sử 9 CTST
5 phút giải địa lí 9 CTST
5 phút giải hướng nghiệp 9 CTST
5 phút giải lắp mạng điện 9 CTST
5 phút giải cắt may 9 CTST
5 phút giải nông nghiệp 9 CTST
5 phút giải tin học 9 CTST
5 phút giải GDCD 9 CTST
5 phút giải HĐTN 9 bản 1 CTST
5 phút giải HĐTN 9 bản 2 CTST
Môn học lớp 9 cánh diều
5 phút giải toán 9 CD
5 phút soạn bài văn 9 CD
Văn mẫu 9 cánh diều
5 phút giải KHTN 9 CD
5 phút giải lịch sử 9 CD
5 phút giải địa lí 9 CD
5 phút giải hướng nghiệp 9 CD
5 phút giải lắp mạng điện 9 CD
5 phút giải trồng trọt 9 CD
5 phút giải CN thực phẩm 9 CD
5 phút giải tin học 9 CD
5 phút giải GDCD 9 CD
5 phút giải HĐTN 9 CD
Trắc nghiệm 9 Kết nối tri thức
Trắc nghiệm 9 Chân trời sáng tạo
Trắc nghiệm 9 Cánh diều
Tài liệu lớp 9
Văn mẫu lớp 9
Đề thi lên 10 Toán
Đề thi môn Hóa 9
Đề thi môn Địa lớp 9
Đề thi môn vật lí 9
Tập bản đồ địa lí 9
Ôn toán 9 lên 10
Ôn Ngữ văn 9 lên 10
Ôn Tiếng Anh 9 lên 10
Đề thi lên 10 chuyên Toán
Chuyên đề ôn tập Hóa 9
Chuyên đề ôn tập Sử lớp 9
Chuyên đề toán 9
Chuyên đề Địa Lý 9
Phát triển năng lực toán 9 tập 1
Bài tập phát triển năng lực toán 9
Bình luận