Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) chia sẻ cảm nhận của bạn về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du, trong đó chú ý đến những câu thơ có sử dụng biện pháp đối.

Văn mẫu 11 chân trời sáng tạo đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) chia sẻ cảm nhận của bạn về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du, trong đó chú ý đến những câu thơ có sử dụng biện pháp đối.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Bài tham khảo 1:

Nói tới tấm lòng thì ông gọi là “tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng” … Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : “gió mưa , gió trăng , gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu” … Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá . Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có. Chẳng hạn : “ăn gió nằm mưa”, “bướm chán ong chường”, “bướm lả ong lơi”, “cười phấn cợt son”, “liễu chán hoa chê”, “ngày gió đêm trăng”, “nắng giữ mưa gìn”. Nguyễn Du là người đầu tiên mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam cái mùi hết sức khác lạ: “mùi nhớ”. Với Nguyễn Du thì nỗi nhớ người yêu cũng có hương vị riêng. Đây là một cách nói hết sức hiện đại. Với cách dùng từ hiện đại kiểu như “mùi nhớ”, “lá gió”, “cành chim” (Dập dìu lá gió, cành chim), “ngậm gương” (Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương)... đại thi hào đã góp phần đưa ngôn ngữ dân tộc lên một tầm cao mới. Ngôn ngữ Truyện Kiều đẹp và mang một sức sống lâu bền bởi được chắt lọc từ  sự giản dị mà tinh diệu trong ngôn ngữ đời sống của người dân xứ Nghệ…Điều chúng ta trân trọng và gìn giữ là hương âm xứ Nghệ thân thương. Đó là thứ “hương âm vô cải” đã góp phần làm nên vẻ đẹp kì ảo, lung linh của lục bát Truyện Kiều. Khi nói đến ngôn ngữ Truyện Kiều là nói đến một thứ ngôn ngữ tinh lọc, bác học đạt đến sự tài hoa nhưng nét tài hoa không chỉ là cái đẹp của sự hoàn mĩ của chữ Nôm người Việt mà nó còn đẹp và duyên dáng trong tiếng nói của người xứ Nghệ. Giáo sư Vũ Khiêu từng nói: “Nguyễn Du là sự kết tinh của văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Kinh Bắc với văn hóa Tràng An để rồi hòa nhập vào văn hóa thế giới với khuôn mặt không thể trộn lẫn. Với những tác phẩm chất chứa tinh thần nhân đạo, ngòi bút đầy rung cảm và tài năng văn chương lỗi lạc, nhất là Truyện Kiều Nguyễn Du đã làm đẹp thêm văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Việt Nam”. Phải một ngôn ngữ Việt, một tiếng Việt như tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều mới chất chứa, chuyển tải được tất cả những phẩm chất ấy. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên từng thổn thức:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc.

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn.”

Bài tham khảo 2:

Cho đến nay, hơn hai thế kỷ đã đi qua, Truyện Kiều vẫn là “thiên thu tuyệt diệu từ” trong kho tàng văn chương Việt Nam. Đứa con tinh thần của Đại thi hào Nguyễn Du đã làm vinh dự cho nền văn học dân tộc, trở thành những “lời quê” bất hủ. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thi phẩm “vô tiền khoáng hậu” này song chung quy lại vẫn là để khẳng định sức sống của một tác phẩm, sức sáng tạo của một thiên tài. Nằm trong mạch chung ấy, tôi thử đi tìm cái gọi là sức sống của Truyện Kiều trong cách sử dụng Tiếng Việt đậm đà hương âm xứ Nghệ.  Những từ ngữ địa phương mang hương âm đặc sắc tiếng nói của một vùng quê đã đi vào thi ca lục bát Truyện Kiều một cách tự nhiên, nhuần nhị khiến độc giả ngàn đời không phân biệt được cái giới hạn của ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân.  Sự hồn nhiên dung dị và mộc mạc của tiếng nói xứ Nghệ tuy không phải là những mĩ từ nhưng nghệ thuật ngôn từ tinh diệu khéo léo của Đại thi hào Nguyễn Du đã khiến cho những hương âm xứ Nghệ trở nên thân thiết, ngọt ngào, thú vị mà sâu lắng. Tuy chiếm một tỉ lệ không nhiều nhưng những âm vựng của tiếng nói người Nghệ Tĩnh đã làm nên một vẻ đẹp riêng duyên dáng và đáng yêu.Trong Truyện Kiều từ ngữ địa phương mà đặc biệt là tiếng nói vùng Nghệ – Tĩnh được thi hào Nguyễn Du vận dụng như là một phương tiện ngôn ngữ hữu hiệu với những dụng công nghệ thuật độc đáo, như các từ “ả; mụ; chi; cơn, lộn, tàng tàng, cổi, lạt, văng, quảy, ngài, lòn, lọt, lợt ”. Trong Truyện Kiều, từ địa phương Nghệ Tĩnh chủ yếu là lớp từ đơn tiết. Từ đơn là lớp từ chủ yếu thuộc vốn từ cơ bản trong các phương ngữ và trong mọi ngôn ngữ thường chỉ sự vật, tính chất, hoạt động… được dùng nhiều quen thuộc. Vì vậy, sự xuất hiện của từ địa phương trong Truyện Kiều chẳng những không cản trở sự tiếp nhận của người đọc mà còn tạo sắc thái biểu cảm, mang tính địa phương, gần gũi, thân mật, đồng thời vẫn giữ được âm hưởng, giọng điệu, cấu trúc của câu thơ lục bát. Những từ địa phương này phải đặt trong ngữ cảnh mới thấy được cái hay của nó mà nếu thay bằng các từ đồng nghĩa khác sẽ thấy giá trị biểu đạt giảm đi rất nhiều. Những chất liệu từ đời sống văn nghệ dân gian như ca dao, tục ngữ, thành ngữ đã được Nguyễn Du khai thác để miêu tả thiên nhiên và tâm trạng nhân vật. Và như vậy, dấu ấn của văn học dân gian với sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ, hình tượng, cách diễn đạt đã góp phần giúp Truyện Kiều trường tồn với thời gian và nhân loại.  Không ai phủ nhận Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trong vốn từ tiếng Việt mà ông sử dụng, người ta không thể phân biệt được đâu là từ tiếng Việt, đâu là từ do Nguyễn Du tạo nên. Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế, cũng không có trong từ điển thông thường mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng , không phải là hình ảnh sao chép thực tại ) có cấu tạo riêng, nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả. 

Bài tham khảo 3:

“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”

Đây là một câu thơ trong Truyện Kiều chứ không phải là một câu trong kho tàng tục ngữ hay thành ngữ tiếng Việt. Nhưng nó có giá trị chẳng khác gì (thậm chí còn hơn) một câu tục ngữ, thành ngữ chính danh. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, đó là lời của Nguyễn Du thốt lên khi nói về thân phận nàng Kiều (“Kể bao xiết nỗi thảm sầu/ Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”). Nếu giải nghĩa đơn giản, ý của câu thơ là “Phải trải qua thực tế (qua cầu) với những gì đã trải qua thì ta mới hiểu, mới thấm thía hết mọi điều (diễn ra trong cuộc sống)”. “Mới hay” là “mới biết, mới thấu hiểu một điều gì đó khi quan sát mọi sự tình diễn ra”. Đó là logic của cuộc sống. Đó là một lẽ đời. Và đó cũng là một triết lí dân gian về giá trị của sự từng trải, chiêm nghiệm. Tất nhiên, người không chứng kiến những biến cố của ai đó trong cuộc đời vẫn có thể “tri nhận” và thấu cảm sự đời. Đó là lẽ thường tình. Chả ai mong nhận về mình những khổ đau, trắc trở. Nhưng nếu họ đã từng trải qua thì sự thấu cảm đó chắc chắn sẽ thấm thía và sâu sắc hơn. Và cũng chính từ cảnh ngộ của mình, họ sẽ trưởng thành, rắn rỏi hơn. Họ cũng dễ thông cảm và chia sẻ cùng người khác. Có tới 76 trường hợp "hoa" được dùng hoán dụ với nghĩa chỉ người đẹp, sắc đẹp, tình yêu. Hoa được Nguyễn Du dùng để đặc tả khuôn mặt, dáng vẻ, dung nhan của Kiều: “Nàng càng ủ dột nét hoa”; “Xót nàng chút phận thuyền quyên/ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn”; “Về đây nước trước bẻ hoa/ Vương tôn quý khách ắt là đua nhau”; “Sợ gan nát ngọc liều hoa”;...Ngoài các từ ghép phái sinh trên, "hoa" còn xuất hiện trong một loạt thành ngữ khác: cỏ nội hoa tàn (nhan sắc người con gái đã phai tàn), hoa cười ngọc thốt (nụ cười tươi và tiếng nói trong của người con gái), hoa ghen thua thắm (người con gái rất đẹp, đến hoa cũng phải ghen), hoa rụng hương bay (người con gái đã qua đời), hoa thải hương thừa (người con gái không còn trinh tiết, bị vứt bỏ, khinh rẻ), hoa trôi bèo giạt (cảnh lênh đênh, trôi nổi của đời người con gái), hoa xuân đương nhụy (người con gái ở độ tuổi xuân xanh, đang đẹp), hoa xưa ong cũ (người con gái gặp lại người cũ, tình nhân cũ), liễu chán hoa chê (chỉ cảnh ăn chơi hết tầm, tới mức chẳng còn thiết gì nữa), nguyệt nọ hoa kia (quan hệ nam nữ linh tinh, không đứng đắn),... Chỉ tập trung phân tích 2 từ tiêu biểu (đoạn trường và hoa) ta cũng thấy tài tình, ảo diệu của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Ông đã có công rất lớn đối với việc Việt hóa các từ Hán Việt. Qua ngữ cảnh sử dụng, các từ này vừa mang nghĩa gốc, vừa mang nghĩa chuyển. Lịch sử tiếng Việt cho thấy, cha ông ta đã tiếp nhận các từ ngoại lai (mà số lượng từ Hán Việt chiểm tỉ lệ lớn nhất (theo H. Maspéro -1912, là khoảng 60%, theo thống kê mới nhất của Phạm Hùng Việt - 2018, là trên 35%) có sự chủ động và sáng tạo. Các từ Hán Việt trong Truyện Kiều đã có sự thay đổi ngữ nghĩa, đa dạng, sinh động và giàu sắc thái biểu nghĩa và biểu cảm hơn rất nhiều. Về vấn đề này, V. I. Lênin đã có một câu rất chí lí: "Cái cốc ở nhà anh dùng để đựng nước, nhưng sang nhà tôi, tôi có thể dùng làm cái chặn giấy hay nhốt con bướm". Giá trị ngữ dụng chính là thước đo hiệu quả, công năng ngữ nghĩa của các từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều.

Bài tham khảo 4: 

Tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du là một vẻ đẹp đặc biệt, có sức thu hút đối với các độc giả và nhà thơ yêu thơ ca. Trong những bài thơ của Nguyễn Du, biện pháp đối đóng vai trò rất quan trọng để tạo ra sự tương phản và sâu sắc trong hình tượng. Một số câu thơ của Nguyễn Du sử dụng biện pháp đối như: "Hoa đào thắm lắm, mai thâm càng đậm", "Trăng tròn khuyết vẫn là trăng, đêm ngày qua lại vẫn đêm ngày", "Con người trồng rau người ăn, nhân sinh trông cạn nước còn tình". Những câu thơ này khiến cho người đọc phải tựa cảm với những tình cảm sâu sắc và hình ảnh đẹp tinh tế. Bên cạnh đó, tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du còn mang đến sự cảm thụ về đời sống, tình cảm và thăng trầm của cuộc đời. Sự đối lập và tương phản trong từng câu thơ càng làm cho người đọc cảm thấy sâu sắc và đẹp mắt hơn. Với những ai yêu thích văn chương và thơ ca, tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du chắc chắn là một nét đẹp đặc trưng và duyên dáng không thể bỏ qua.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm: Soạn ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo bài 7 Thực hành Tiếng Việt, soạn văn mẫu 11 sách CTST bài 7 Thực hành Tiếng Việt, văn mẫu 11 Chân trời sáng tạo bài Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) chia sẻ cảm nhận của bạn về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du, trong đó chú ý đến những câu thơ có sử dụng biện pháp đối.

Bình luận

Giải bài tập những môn khác