Đáp án tiếng việt 5 Chân trời bài 3: Bài ca Trái Đất

Đáp án bài 3: Bài ca Trái Đất. Bài giải được trình bày ngắn gọn, chính xác giúp các em học tiếng Việt 5 chân trời sáng tạo dễ dàng. Từ đó, hiểu bài và vận dụng vào các bài tập khác. Đáp án chuẩn chỉnh, rõ ý, dễ tiếp thu. Kéo xuống dưới để xem chi tiết

BÀI 54. BÀI CA TRÁI ĐẤT

Khởi động         

Chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc của em khi quan sát tranh sau:

Đáp án chuẩn:

Quan sát tranh vẽ về các bạn có các màu da khác nhau, khoác vai nhau và vui hát, em cảm thấy vô cùng ấm lòng và tràn đầy hy vọng. Hình ảnh này gợi nhớ cho em về tình bạn, tình đoàn kết không phân biệt màu da, ngôn ngữ hay văn hóa.

ĐỌC: BÀI CA TRÁI ĐẤT

Câu 1: Bức tranh Trái Đất được tả trong khổ thơ đầu có gì đẹp?

Đáp án chuẩn:

Trong khổ thơ đầu, Trái Đất được miêu tả như một quả bóng xanh bay lơ lửng giữa bầu trời xanh thẳm, gợi lên hình ảnh một hành tinh đầy sức sống và hòa bình. 

Câu 2: Khổ thơ 2 khẳng định điều gì?

Đáp án chuẩn:

Khẳng định về tình đoàn kết và sự đa dạng của nhân loại trên khắp năm châu, dù da có khác màu.

Câu 3: Hai câu thơ sau gợi cho em những suy nghĩ, cảm xúc gì?

Tiếng hát vui giữ bình yên Trái Đất

Tiếng cười ran cho Trái Đất không già.

Đáp án chuẩn:

Hai câu thơ gợi cho em cảm xúc tích cực và niềm tin vào một tương lai hòa bình, vui vẻ cho Trái Đất. 

Câu 4: Việc lặp lại hai câu thơ ở cuối mỗi khổ thơ nhằm nhấn mạnh điều gì?

Đáp án chuẩn:

Trái Đất là ngôi nhà chung của tất cả mọi người và mỗi người đều có trách nhiệm bảo vệ hành tinh này.

ĐỌC MỞ RỘNG: SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ ĐỌC SÁCH - CHỦ ĐIỂM KHÚC CA HÒA BÌNH

(a) Tìm đọc một truyện hoặc một đoạn kịch:

(b) Ghi chép và trang trí Nhật kí đọc sách.

c. Cùng bạn chia sẻ:

- Truyện hoặc đoạn kịch đã đọc.

- Nhật kí đọc sách.

- ?

d. Thi “Nhà sử học nhí”: Kể và trao đổi về ý nghĩa hoặc bài học rút ra từ câu chuyện.

(e) Ghi chép tóm tắt về một truyện hoặc đoạn kịch được nghe bạn kể.

Đáp án chuẩn:

1. Anh hùng Nguyễn Phúc Lai

Anh hùng Nguyễn Phúc Lai, sinh năm 1928, nguyên quán xã Chi Long huyện Nam Xương - nay là huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam. Khi hy sinh, Nguyễn Phúc Lai là tiểu đội trưởng trung đội 1, đại đội 2, tiểu đoàn 56, chiến đấu ở Liên khu phố 2 Hà Nội, nay là địa bàn quận Đống Đa.

Tháng 1/1947, đại đội của Nguyễn Phúc Lai được tăng cường cho mặt trận phía tây Hà Nội. Sáng ngày 6/1/1947, quân Pháp huy động gần 1000 lính bộ binh, hàng chục xe tăng, có pháo binh, máy bay yểm trợ từ các vị trí trong thành Hà Nội tiến công về phía Giảng Võ, Ô Chợ Dừa. Trên hướng Giảng Võ, mũi vu hồi lớn – chúng cho xe tăng địch đến gần, Nguyễn Phúc Lai ôm bom ba càng từ dưới công sự bất ngờ lao vào xe tăng địch. Một tiếng nổ dữ dội, xe tăng địch khựng lại, bốc cháy. Nguyễn Phúc Lai anh dũng hy sinh. Noi gương chiến đấu, hy sinh dũng cảm của người tiểu đội trưởng 19 tuổi, toàn đại đội 2 đồng loạt xung phong đánh giáp lá cà với địch, bẻ gãy cuộc tấn công của quân Pháp ra mặt trận phía tây Hà Nội.

Ngày 27/1/1997, Nguyễn Phúc Lai được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Hiện tại Nguyễn Phúc Lai được đặt tên cho một con đường ở thị trấn Vĩnh Trụ, Lý Nhân, Hà Nam.

2. Anh hùng Nguyễn Viết Xuân

Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc-một vùng quê có truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm.

Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lên 7 tuổi, Nguyễn Viết Xuân đã phải sống một cuộc đời đi ở kéo dài suốt 10 năm. Khi vừa tròn 18 tuổi, anh đã dũng cảm vượt vùng tạm chiến ra vùng tự do, xin đi bộ đội. Nhập ngũ tháng 11 năm 1952, lúc đầu, anh làm chiến sỹ trinh sát, rồi tiểu đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng pháo cao xạ, sau làm chính trị viên đại đội. Bất kỳ ở cương vị nào, Nguyễn Viết Xuân cũng luôn nêu cao quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, gương mẫu, xung phong đi đầu, cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, anh đã cùng đồng đội dũng cảm chiến đấu, không ngại hy sinh, gian khổ, góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch, giải phóng miền Bắc, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam.

Hòa bình lập lại ở miền Bắc, đơn vị của Anh làm nhiệm vụ huấn luyện và xây dựng. Bản thân, tuy sức yếu hơn so với đồng đội, song công việc nào được giao, dù nặng nhọc, vất vả, đồng chí vẫn phấn đấu hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Năm 1964 bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc nước ta, Nguyễn Viết Xuân với vai trò là một bí thư chi bộ, một chính trị viên đại đội pháo cao xạ, đã nêu tấm gương sáng ngời về tinh thần kiên quyết tiến công địch. Tiêu biểu là trận đánh địch ngày 18 tháng 11 năm 1964. Trong trận chiến đấu này, Mỹ đã huy động nhiều tốp máy bay đánh phá ác liệt vùng ChaLo thuộc miền tây tỉnh Quảng Bình. Ngay đợt đầu, 3 chiếc máy bay F. 100 bất ngờ lao vào trận địa của đại đội Nguyễn Viết Xuân. Loạt đạn đầu tiên của khẩu đội 3 đã đón đánh chiếc đi đầu trong tốp, bọn địch đổi hướng tấn công và tập trung oanh tạc vào Khẩu đội 3. Cả trận địa nổ súng giòn giã, đánh trả quyết liệt lũ cướp trời, một chiếc trong tốp bay của địch trúng đạn bốc cháy, nhưng một chiếc khác đã phóng một loạt tên lửa về phía khẩu đội 3. Bất chấp nguy hiểm, Nguyễn Viết Xuân lao ra khỏi công sự, đứng bên khẩu đội 3 đĩnh đạc tỏ rõ khí phách và hô lớn: "Nhằm thẳng quân thù, bắn!"

Giữa làn bom đạn địch, tiếng hô dõng dạc của anh vang trên trận địa đã trở thành khẩu hiệu khích lệ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn đơn vị và trên khắp các chiến trường đánh Mỹ. Lưới lửa của đại đội vây chặt lũ máy bay Mỹ và một chiếc nữa lại phải đền tội. Trận chiến đấu vừa tạm dứt, anh đi khắp các khẩu đội để nắm tình hình động viên quyết tâm tiếp tục chiến đấu. Máy bay địch lại ập đến, điên cuồng bắn phá trận địa của đại đội. Một lần nữa cuộc chiến đấu lại diễn ra khốc liệt tiếng máy bay của địch gầm rú trên bầu trời liên tiếp nhả các loạt bom xuống trận địa, anh bị thương nặng, gãy nát đùi bên phải. Nhưng Nguyễn Viết Xuân vẫn thản nhiên bảo y tá cắt nốt phần thịt dính vào chân, bỏ chân đi cho đỡ vướng. Đồng chí nói: "Tôi không việc gì" và căn dặn y tá không được cho mọi người biết. Và vẫn tỉnh táo theo dõi cuộc chiến đấu, biểu dương kịp thời những chiến sĩ và khẩu đội lập công. Sau trận chiến đấu ác liệt, anh chỉ định người thay thế, phân công người chăm sóc các đồng đội bị thương, bình tĩnh bàn giao công việc rất tỉ mỉ, rõ ràng. Trở về tuyến sau, vết thương quá nặng, máu ra nhiều, Nguyễn Viết Xuân thấy mình khó qua được, anh đã bình tĩnh trao đổi nhiệm vụ với người thay thế, dặn dò cặn kẽ việc chấp hành Nghị quyết của Chi bộ và nêu một số đề nghị về công tác phát triển Đảng, Đoàn và khen thưởng trong đơn vị. Khi hy sinh, anh là thiếu úy, chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, sư đoàn 325, Quân khu 4, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tấm gương chiến đấu anh dũng quên mình vì nhiệm vụ của đồng chí được cán bộ chiến sĩ trong đơn vị rất cảm phục, cả đại đội 3 đã dấy lên một cao trào thi đua, kiên quyết chiến đấu lập công, trả thù cho người chính trị viên yêu quý của mình.

Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nguyễn Viết Xuân đã được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

LUYỆN TỪ VÀ CÂU: LIÊN KẾT CÁC CÂU TRONG ĐOẠN VĂN BẰNG CÁCH LẶP TỪ NGỮ

Câu 1: Đọc đoạn văn sau và thực hiện yêu cầu:

Những hàng dâu bánh tẻ ngợp trước mắt tôi. Dâu chưa cao bằng đầu người, nhưng cành dâu đâm tua tủa. Lá dâu loè xoè, to bản như lá trầu không. Xen giữa những luống dâu là từng vồng khoai lang dây đỏ tía, chạy dài theo thân đất, như nhiều đường kẻ sọc ken vào nhau, trên cùng một tấm vải.

Dương Thị Xuân Quý

a. Tìm từ được sử dụng lặp lại ở các câu.

b. Việc lặp lại từ tìm được ở bài tập a có tác dụng gì?

Đáp án chuẩn:

a. Từ được sử dụng lặp lại trong đoạn văn là "dâu".

b. Việc lặp lại từ "dâu" trong đoạn văn giúp nhấn mạnh về chủ thể chính của đoạn văn – những hàng dâu. Sự lặp đi lặp lại này giúp tạo ra sự chú ý đến không gian và khung cảnh mà tác giả muốn mô tả, làm cho hình ảnh của những hàng dâu trở nên sinh động và đậm nét hơn trong tâm trí của người đọc. Nó cũng giúp tạo ra một cảm giác về sự phong phú, dồi dào của cây dâu trong không gian được mô tả, qua đó góp phần tạo nên bức tranh tự nhiên đầy màu sắc và sống động.

Câu 2: Tìm từ ngữ được dùng lặp lại ở các câu trong mỗi đoạn văn sau và

nêu tác dụng của chúng:

a. Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng muốt, nhỏ như những chiếc chuông tí hon. Hoa sấu thơm nhẹ. Vị hoa chua chua thấm vào đầu lưỡi, tưởng như vị nắng non của mùa hè mới đến vừa đọng lại.

Theo Băng Sơn

b. Loanh quanh trong rừng, chúng tôi đi vào một lối đầy nắm dại, một thành phố nấm lúp xúp dưới bóng cây thưa. Những chiếc nấm to bằng cái ấm tích, màu sặc sỡ rực lên. Mỗi chiếc nắm là một lâu đài kiến trúc tân kì. Tôi có cảm giác mình là một người khổng lồ đi lạc vào kinh đô của vương quốc những người tí hon.

Theo Nguyễn Phan Hách

Đáp án chuẩn:

a. Từ ngữ được dùng lặp lại trong đoạn văn này là "hoa sấu". Việc lặp lại từ ngữ này nhấn mạnh vẻ đẹp và hương vị đặc trưng của hoa sấu trong không gian mô tả, tạo ra một bức tranh sống động về mùa hè với những chùm hoa trắng muốt và hương thơm dịu dàng. Nó cũng gợi lên cảm giác về một mùa hè mới đến, mang theo vị nắng non và sự tươi mới.

b. Từ ngữ được dùng lặp lại trong đoạn văn này là "nấm". Việc lặp lại từ "nấm" nhấn mạnh sự phong phú và đa dạng của thế giới nấm dưới bóng cây, tạo ra một hình ảnh về một "thành phố nấm" với kiến trúc tuyệt đẹp và sặc sỡ. Nó cũng gợi lên cảm giác kỳ diệu và mộng mơ khi tác giả cảm thấy mình như đang lạc vào một vương quốc của những người tí hon, tạo nên một không gian huyền ảo và đầy màu sắc trong trí tưởng tượng của người đọc.

Câu 3: Thay mỗi bằng một từ ngữ đã dùng ở câu trước để các câu trong đoạn văn sau có sự liên kết:

Cà Mau đất xốp. Mùa nắng, nẻ chân chim, nền nhà cũng rạn nứt. Trên cái phập phều và lắm gió, dông như thế, cây đứng lẻ khó mà chống nỗi với những những cơn thịnh nộ của trời. Cây bình bát, cây bản cũng phải quây quần thành chòm, thành rặng; rễ phải dài, phải cắm sâu vào lòng đất. Nhiều nhất là đước. mọc san sát đến tận mũi đất cuối cùng, thẳng đuột như hằng hà sa số cây dù xanh cắm trên bãi. Nhà cửa dựng dọc theo những bờ kênh, dưới những hàng xanh rì. Nhà nọ sang nhà kia phải leo trên cầu bằng thân .

Đáp án chuẩn:

Cà Mau đất xốp. Mùa nắng, đất nẻ chân chim, nền nhà cũng rạn nứt. Trên cái đất phập phều và lắm gió, dông như thế, cây đứng lẻ khó mà chống nỗi với những những cơn thịnh nộ của trời. Cây bình bát, cây bản cũng phải quây quần thành chòm, thành rặng; rễ phải dài, phải cắm sâu vào lòng đất. Nhiều nhất là đước. Đước mọc san sát đến tận mũi đất cuối cùng, thẳng đuột như hằng hà sa số cây dù xanh cắm trên bãi. Nhà cửa dựng dọc theo những bờ kênh, dưới những hàng đước xanh rì. Nhà nọ sang nhà kia phải leo trên cầu bằng thân đước.

Câu 4: Viết 3 - 4 câu giới thiệu một cây bóng mát mà em thích, trong đó có sử dụng cách lặp từ ngữ để liên kết câu.

Đáp án chuẩn:

Cây me là cây cho bóng mát mà em rất thích. Nó đứng hiên ngang bên lề đường, tạo nên một góc rợp bóng mát. Lá me xanh mướt, xanh mướt, che phủ một khoảng không gian rộng lớn, mang đến bóng mát cho những ngày hè oi ả. Dưới gốc me, dưới gốc me, là nơi lý tưởng để ngồi đọc sách, ngắm cảnh, hay chỉ đơn giản là thả hồn vào làn gió nhẹ. Cây me không chỉ đem lại bóng mát, mát mẻ, mà quả me còn mang vị chua ngọt, làm nên những món ăn dân dã mà đậm đà hương vị tuổi thơ.

VIẾT: VIẾT ĐOẠN VĂN THỂ HIỆN TÌNH CẢM, CẢM XÚC VỀ MỘT CÂU CHUYỆN

Đề bài: Viết đoạn văn thể hiện tình cảm, cảm xúc của em về một câu chuyện đã nghe, đã đọc về quê hương, đất nước.

Câu 1: Viết đoạn văn dựa vào kết quả bài tập 1 trang 92 và các gợi ý:

Đáp án chuẩn:

Truyện "Núi Quê Tôi" của Lê Phương Liên mô tả một cảnh sắc thiên nhiên yên bình và đẹp đẽ của núi quê tác giả. Qua lời kể, ta có thể hình dung về bóng dáng của ngọn núi xanh thẫm hiện lên giữa nền trời mây trắng, với những đặc trưng thay đổi theo mùa, từ mây trắng bay như tấm khăn mỏng vào cuối thu đến hình ảnh núi xanh mướt dưới ánh chớp của cơn dông mùa hè. Cảnh vật núi quê được miêu tả sinh động với màu sắc đa dạng của lá cây, những vườn chè, vườn sắn bao quanh, và tiếng nước chảy trong vắt từ khe nhỏ. Hơn nữa, thông qua cảm nhận của nhân vật, truyện còn truyền đạt tình cảm sâu đậm và niềm tự hào về quê hương, nơi gắn bó với bản thân tác giả từ nhỏ. Mỗi chi tiết như gợi nhớ và tôn vinh vẻ đẹp, sự yên bình và giàu giá trị tinh thần của quê hương trong mắt những người con xa xứ.

VẬN DỤNG

Nói 2 - 3 câu để giới thiệu bài thơ “Bài ca Trái Đất” với người thân.

Đáp án chuẩn:

"Bài ca Trái Đất" là một bài thơ đầy ý nghĩa, gửi gắm thông điệp về tình yêu đối với Trái Đất và sự đoàn kết giữa mọi người dù có sự khác biệt về màu da. Qua bài thơ, tác giả muốn kêu gọi mỗi chúng ta cùng nhau hành động để bảo vệ hành tinh xanh, khuyến khích tiếng cười và tiếng hát vui vẻ nhằm giữ gìn bình yên cho Trái Đất. Em cảm thấy rất cảm động trước những ý tưởng này và mong muốn mọi người cùng nhau chung sống hòa thuận tạo nên một thế giới hòa bình và tươi đẹp hơn.

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Bình luận

Giải bài tập những môn khác