Slide bài giảng ngữ văn 8 cánh diều bài 7 Đọc 4: Vịnh khoa thi Hương
Slide điện tử bài 7 Đọc 4: Vịnh khoa thi Hương. Kiến thức bài học được hình ảnh hóa, sinh động hóa. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của học môn Ngữ văn 8 cánh diều sẽ khác biệt
Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu
Tóm lược nội dung
VĂN BẢN. VỊNH KHOA THI HƯƠNG
CHUẨN BỊ
Câu 1:
- Đọc trước văn bản Vịnh khoa thi Hương, tìm hiểu, ghi chép lại những thông tin về nhà thơ Trần Tế Xương và bối cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX giúp cho việc đọc hiểu bài thơ này.
- Vịnh khoa thi Hương là bài thơ viết bằng chữ Nôm, được Trần Tế Xương sáng tác trong thời gian ông tham dự kì thi Hương tại trường thi Hà – Nam. Vợ chồng viên toàn quyền Đông Dương Pôn Du-me (Paul Doumer) và vợ chồng viên công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng (Le Normand) có tới dự lễ xướng danh (ngày 27-12-1897).
Gợi ý:
Tác giả:
Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương.
Quê ông ở làng Vị Xuyên - huyện Mĩ Lộc - tỉnh Nam Định
Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả tám lần. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi.
Thơ của Tế Xương có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình trong đó trữ tình là gốc. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
Bối cảnh lịch sử: Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục bùng nổ dữ dội trong những năm cuối thế kỉ XIX.
CÂU HỎI CUỐI BÀI
Câu 1: Hãy nêu chủ đề và bố cục bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương.
Trả lời rút gọn:
Chủ đề: Những cảnh chướng tai, gai mắt ở trường thi phản ánh tình trạng suy đồi của Nho học và sự xâm nhập ồ sạt của thứ văn hóa lai và nỗi lòng đau xót, phẫn uất của tác giả.
Bố cục theo thể thơ
Hai câu đề: Giới thiệu về kì thi
Hai câu thực: Cảnh tượng khi đi thi
Hai câu luận: Những ông to bà lớn đến trường thi
Hai câu kết: Thái độ phê bình của nhà thơ với kì thi
Câu 2: Xác định các đối tượng trào phúng mà bài thơ hướng tới. Thái độ của tác giả đối với các đối tượng đó được thể hiện như thế nào?
Trả lời rút gọn:
Các đối tượng trào phúng mà bài thơ hướng tới là giám khảo coi thi, sĩ tử đi thi.
Sáu câu thơ đầu, Tế Xương dùng giọng điệu mỉa mai, châm biếm nhưng đến hai câu thơ cuối, tác giả đã chuyển sang giọng điệu trữ tình để lay gọi, đánh thức lương tri mọi người.
Câu 3: Hai câu đề cho thấy kì thi có gì đặc biệt?
Trả lời rút gọn:
Hai câu thơ mở đầu có tính tự sự, nhằm kể lại kì thi.
Nhà nước ba năm mở một khoa thi
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Nhưng sự bất bình thường đã thể hiện trong câu thơ thứ hai, đó là cách thức tổ chức kì thức: trường Nam thi lẫn với trường Hà. Từ lẫn đã thể hiện sự ô hợp, nhốn nháo trong thi cử.
Câu 4: Phân tích ý nghĩa trào phúng của nghệ thuật sử dụng phép đối, nghệ thuật sử dụng ngôn từ ở hai câu thực và hai câu luận của bài thơ.
Trả lời rút gọn:
Sĩ tử là người đi thi quan trường là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch.
Biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ 5 và 6 là “đối”. Đối lập với hình ảnh sĩ tử và quan trường là hình ảnh quan sứ và bà đầm.
=> Biện pháp đảo ngữ kết hợp với nghệ thuật đối đã được vận dụng một cách triệt để, tạo nên sức mạnh đả kích, châm biếm dữ dội, sâu cay.
Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm.
=> Bốn câu thơ vạch trần sự nhếch nhác, tùy tiện của khoa cử lúc bấy giờ.
Câu 5: Xác định sắc thái giọng điệu của tác giả trong hai câu kết. Qua hai câu kết cũng như cả bài thơ, có thể thấy được thái độ và nỗi lòng của Trần Tế Xương trước tình cảnh đất nước như thế nào?
Trả lời rút gọn:
- Giọng điệu của tác giả trong hai câu kết mang đậm chất trữ tình có tác dụng lay tỉnh lương tâm, lương tri của các sĩ tử.
- Hai câu thơ cuối, tác giả sử dụng giọng điệu trữ tình để lay gọi, đánh thức lương tri mọi người. Tế Xương thấy rõ sự nhục nhã của hoàn cảnh, của thân phận mà căm ghét bọn giặc ngoại bang. Ông nhắc nhở mọi đừng quên nỗi nhục mất nước.
Câu 6: Theo em, sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình đã giúp nhà thơ thể hiện được điều gì?
Trả lời rút gọn:
Sự kết hợp giữa cảm xúc trào phúng và trữ tình trong các bài thơ của Tế Xương đã giúp nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp và mạnh mẽ các tâm tư, tình cảm, cảm xúc của mình trước tình hình đất nước. Bài thơ thể hiện sự trào phúng, xót xa, nỗi đau xót sâu sắc của nhà thơ trước hiện thực khắc nghiệt của đất nước. Tế Xương muốn đánh thức ý thức dân tộc, đặc biệt là ở những người tài, người có trách nhiệm và khả năng cứu nước, cứu dân. Bằng cách kết hợp giữa lối trào phúng sắc bén và sự trữ tình chân thành, nhà thơ đã thể hiện được những khắc khoải, trăn trở về số phận của đất nước và nhân dân.