So sánh yếu tố kì ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ với yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích "Thạch Sanh".

Tuyển tập những bài tập làm văn hay nhất trong chương trình Ngữ văn lớp 12 bộ cánh diều . Có nhiều bài viết hay khác nhau để các em tham khảo. Sau đây, mời bạn đọc cùng tham khảo bài: So sánh yếu tố kì ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ với yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích "Thạch Sanh".

Bài mẫu 1: 

Yếu tố kỳ ảo là một đặc điểm nổi bật trong văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam, thường xuất hiện để tạo ra những tình huống hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng và truyền tải những giá trị đạo đức, tư tưởng nhân văn. "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ và truyện cổ tích "Thạch Sanh" đều sử dụng yếu tố kỳ ảo một cách độc đáo, nhưng với những mục đích và cách thể hiện khác nhau.

Trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên", yếu tố kỳ ảo được thể hiện qua cuộc chiến giữa Ngô Tử Văn và hồn ma tên tướng giặc Thôi. Sau khi đốt đền tà, Tử Văn bị bệnh và bị lôi xuống âm phủ để đối chất với Diêm Vương. Sự xuất hiện của hồn ma, Thổ công, quỷ sứ và cả Diêm Vương đều là những yếu tố kỳ ảo, nhằm tạo ra bối cảnh huyền bí và căng thẳng. Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố này để khẳng định tính chính trực, dũng cảm của Tử Văn và phê phán sự gian tà, tham nhũng. Hành động đốt đền của Tử Văn không chỉ là hành động chống lại tà ác mà còn là biểu tượng cho sự khát khao công lý, sự can đảm đứng lên chống lại bất công dù phải đối mặt với nguy hiểm.

Ngược lại, trong truyện cổ tích "Thạch Sanh", yếu tố kỳ ảo xuất hiện từ những chi tiết về xuất thân và hành trình đi tìm công lý của Thạch Sanh. Chàng là thái tử của Ngọc Hoàng, được sinh ra từ bụng mẹ sau ba năm mang thai, được thần tiên dạy võ nghệ và các phép thần thông. Hành trình của Thạch Sanh đầy những yếu tố kỳ ảo như việc đánh bại Trăn Tinh, Đại Bàng và Hồ Tinh, hay việc cứu công chúa và Thái tử con vua Thủy Tề. Cây đàn thần và niêu cơm thần kỳ cũng là những yếu tố quan trọng, thể hiện sự kỳ diệu và sức mạnh thần thánh. Những yếu tố này không chỉ làm tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện mà còn thể hiện triết lý nhân quả, sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác, và lòng nhân từ của Thạch Sanh.

So với "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên", yếu tố kỳ ảo trong "Thạch Sanh" mang tính chất thần thoại hơn, với sự hiện diện của các sinh vật siêu nhiên và phép màu. Cả hai tác phẩm đều dùng yếu tố kỳ ảo để xây dựng hình tượng nhân vật chính: Ngô Tử Văn hiện lên với tính cách cương trực, dũng cảm, còn Thạch Sanh là hiện thân của lòng nhân ái, sức mạnh và đức tính cao quý. Tuy nhiên, "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" tập trung vào mâu thuẫn giữa con người và thế lực tà ác trong bối cảnh một xã hội cụ thể, nhằm phê phán những hiện tượng tiêu cực và cổ vũ tinh thần đấu tranh vì lẽ phải. Trong khi đó, "Thạch Sanh" lại mang tính chất hoang đường, sử dụng những tình huống lạ kỳ để truyền tải thông điệp về nhân quả, sự công bằng và lòng nhân đạo.

Nhìn chung, yếu tố kỳ ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" và "Thạch Sanh" đều góp phần làm nổi bật giá trị tư tưởng và nghệ thuật của hai tác phẩm. Cả hai đều khẳng định sự chiến thắng của chính nghĩa, tôn vinh những phẩm chất cao quý của con người và tạo nên những câu chuyện hấp dẫn, giàu tính nhân văn. Sự khác biệt trong cách sử dụng yếu tố kỳ ảo giữa hai tác phẩm cũng phản ánh sự đa dạng và phong phú của văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Bài mẫu 2: 

Yếu tố kỳ ảo trong văn học Việt Nam không chỉ góp phần tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn mà còn là phương tiện để các tác giả thể hiện tư tưởng, quan niệm về cuộc sống và con người. Hai tác phẩm tiêu biểu cho việc sử dụng yếu tố kỳ ảo này là "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ và truyện cổ tích "Thạch Sanh". Mặc dù cả hai đều khai thác yếu tố kỳ ảo, nhưng cách tiếp cận và mục đích của mỗi tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý.

Trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên", yếu tố kỳ ảo được thể hiện qua sự giao tiếp giữa người sống và linh hồn, cuộc hành trình xuống âm phủ của Ngô Tử Văn và những cảnh tượng ở cõi âm. Sau khi đốt đền tà của tên tướng giặc Thôi, Tử Văn bị bệnh nặng và bị quỷ sứ bắt xuống âm phủ. Tại đây, anh phải đối diện với Diêm Vương và hồn ma của tên tướng giặc. Sự xuất hiện của Diêm Vương, quỷ sứ và các linh hồn là những yếu tố kỳ ảo nhằm tạo ra bối cảnh huyền bí, qua đó khẳng định sự chính trực và lòng dũng cảm của Tử Văn. Nguyễn Dữ sử dụng yếu tố kỳ ảo không chỉ để tạo kịch tính mà còn để truyền tải thông điệp về công lý và sự thật, phê phán sự giả dối và tàn ác, đồng thời ca ngợi tinh thần đấu tranh vì lẽ phải của con người.

Trái ngược với sự kỳ ảo mang tính chất phê phán xã hội trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên", truyện cổ tích "Thạch Sanh" lại mang đậm màu sắc thần thoại, với nhiều yếu tố kỳ diệu từ xuất thân đến hành trình phiêu lưu của nhân vật chính. Thạch Sanh là con trai của Ngọc Hoàng, sinh ra trong hoàn cảnh kỳ lạ và được thần tiên dạy dỗ. Cuộc đời Thạch Sanh đầy những thử thách và chiến công phi thường: từ việc đánh bại Trăn Tinh, Đại Bàng, đến việc cứu công chúa và Thái tử con vua Thủy Tề. Cây đàn thần và niêu cơm thần kỳ cũng là những yếu tố kỳ ảo quan trọng, thể hiện sức mạnh và sự thiêng liêng. Những yếu tố kỳ ảo trong "Thạch Sanh" không chỉ tạo nên sự hấp dẫn mà còn thể hiện triết lý nhân quả, đề cao phẩm chất cao đẹp và lòng dũng cảm của Thạch Sanh, khẳng định sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác.

Sự khác biệt giữa hai tác phẩm không chỉ nằm ở cách sử dụng yếu tố kỳ ảo mà còn ở mục đích và thông điệp mà các tác giả muốn truyền tải. Trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên", yếu tố kỳ ảo được sử dụng để tạo ra một không gian huyền bí, nơi mà cuộc chiến giữa thiện và ác diễn ra rõ rệt, qua đó phê phán những tệ nạn xã hội và ca ngợi tinh thần chính trực. Ngược lại, trong "Thạch Sanh", yếu tố kỳ ảo lại mang tính chất thần thoại, tập trung vào việc tôn vinh những phẩm chất cao quý và lòng nhân từ của nhân vật chính, qua đó truyền tải thông điệp về sự công bằng và nhân quả.

Nhìn chung, yếu tố kỳ ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" và "Thạch Sanh" đều góp phần làm nổi bật giá trị nghệ thuật và tư tưởng của hai tác phẩm. Sự khác biệt trong cách khai thác và sử dụng yếu tố kỳ ảo giữa hai tác phẩm cũng phản ánh sự đa dạng và phong phú của văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong khi "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" sử dụng yếu tố kỳ ảo để phê phán và phản ánh xã hội, thì "Thạch Sanh" lại dùng yếu tố này để ca ngợi và tôn vinh những giá trị nhân văn cao đẹp. Cả hai tác phẩm đều thể hiện tài năng sáng tạo của tác giả và sự hấp dẫn không ngừng của yếu tố kỳ ảo trong văn học Việt Nam.

Viết bài văn so sánh yếu tố kì ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ với yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích "Thạch Sanh".

Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên

Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực. Trong làng trước có một ngôi đền linh ứng lắm. Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian. Tử Văn rất tức giận, một hôm tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng chàng vẫn vung tay không cần gì cả.

Đốt đền xong, chàng về nhà, thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi sốt, chàng thấy một người khôi ngô, cao lớn, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng và quần áo rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại ngôi đền như cũ và nói:

- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách vở của thánh hiền, há không biết cái đức của quỷ thần sao, cớ gì lại dám khinh nhờn huỷ tượng, đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ huỷ đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.

Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên. Người kia tức giận nói:

- Phong đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.

Nói rồi phất áo đi.

Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:

- Tôi là Thổ công ở đây, nghe thấy việc làm rất thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng.

Tử Văn ngạc nhiên nói:

- Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải là Thổ công đấy ư? Sao mà nhiều thần quá vậy?

Ông già nói:

- Ô, đấy là viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo họ tên của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng Đế bị nó bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe: “Tôi làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã hơn một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như tên giặc giảo hoạt kia đã làm. Gần đây vì tôi thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay”.

Tử Văn nói:

- Việc xảy ra đến như thê, sao ngài không kiện ở Diêm Vương và tâu lên Thượng Đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?

Ông già chau mặt nói:

- Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả. Tôi chỉ giữ được một chút lòng thành, nhưng không làm thế nào để thông đạt được lên, cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.

Tử Văn nói:

- Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?

- Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện thầy ở Minh ti. Tôi nhân lúc hắn đi vắng lén đến đây báo cho nhà thầy biết để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.

Ông già lại dặn Tử Văn:

- Hễ ở Minh ti có tra hỏi, thầy cứ khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối, thầy kêu xin tư giấy đến đền Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.

Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi thấy hai tên quỷ sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ nửa ngày đến một toà nhà rất lớn, xung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy chục trượng. Hai tên quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc rồi ra truyền chỉ rằng:

- Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm.

Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Ở đó có một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên cầu có mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác. Hai con quỷ dùng gông dài, thừng lớn gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh. Tử Văn kêu to:

- Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng.

Chợt nghe trên điện có lời quát:

- Tên này bướng bỉnh ngoan cố, nếu không phán đoán cho rõ, chưa chắc nó đã chịu nhận tội.

Bèn sai dẫn Tử Văn vào cửa điện. Tử Văn vào đến nơi, thấy người đội mũ trụ đang kêu cầu ở trước sân.

Diêm Vương mắng Tử Văn rằng:

- Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều, nên hoàng thiên cho được huyết thực ở một ngôi đền để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?

Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời Thổ công đã nói, lời rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào. Người đội mũ trụ nói:

- Ấy là ở trước vương phủ mà hắn còn ghê gớm như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu hắn sợ gì mà không dám cho một mồi lửa.

Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, vì thế Diêm Vương sinh nghi. Tử Văn nói:

- Nếu nhà vua không tin lời tôi, xin đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi. Không đúng như thế, tôi xin chịu thêm cái tội nói càn.

Bấy giờ người kia mới có vẻ sợ, quỳ xuống tâu rằng:

- Gã kia là học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa. Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh.

Diêm Vương quát lớn rằng:

- Cứ như lời hắn thì nhà ngươi đáng tội chết. Điều luật trị tội lừa dối đã sẵn sàng đó. Cớ sao nhà ngươi dám làm sự lập lờ nhận tội như vậy?

Diêm Vương lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bào các phán quan rằng:

- Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao hết được!

Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu U.

Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa và sai lính đưa Tử Văn về.

Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và không tin là thực. Sau đó họ đón một bà đồng về phụ bóng, đồng lên cũng nói đúng như lời Tử Văn. Người làng bèn mua gỗ, dựng lại một toà đền mới. Còn ngôi mộ của tên tướng giặc kia thì tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy.

Sau đó một tháng, Tử Văn thấy Thổ công đến bảo:

- Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy không biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân phán sự, lão đã vì nhà thầy hết sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vây xin lấy việc đó để đền ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người khác mất. Nên cố gắng đi, đừng coi là việc thường.

Tử Văn vui vẻ nhận lời, bèn thu xếp việc nhà, rồi không bệnh mà mất.

Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy trong sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe tiếng quát:

- Người đi đường tránh xa, xe quan phán sự!

Người ấy ngẩng đầu trông thì thấy, người ngồi trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ chắp tay thi lễ chứ không nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà biến mất. Đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là “nhà quan phán sự”!

Than ôi! Người ta thường nói: “Cứng quá thì gãy”. Kẻ sĩ chỉ lo không cứng cỏi được, còn gãy hay không là việc của trời. Sao lại đoán trước là sẽ gãy mà chịu đổi cứng ra mềm?

Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.

Truyện cổ tích Thạch Sanh

THẠCH SANH

Xưa ở quận Cao Bình có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con. Ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Ông thì sửa cầu, sửa cống, khơi rãnh, đắp đường. Bà thì nấu nước cho người qua đường uống. Việc làm của gia đình họ Thạch thấu đến trời, Ngọc Hoàng cho Thái tử đầu thai xuống trần làm con nhà họ Thạch. Thạch bà thụ thai ba năm, chưa sinh con thì Thạch ông mất. Sau đó, Thạch bà sinh một con trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Thạch Sanh. Cách ít năm sau, Thạch bà cũng mất, Thạch Sanh sống côi cút một mình trong túp lều tranh dưới gốc đa với một mảnh khố che thân và một cái búa đốn củi.

Năm Thạch Sanh mười ba tuổi, Ngọc Hoàng sai tiên ông xuống dạy cho chàng các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.

Một hôm có anh hàng rượu tên là Lý Thông, đi bán rượu ghé vào gốc đa nghỉ chân, thấy Thạch Sanh khỏe mạnh, lanh lợi, ở một mình, bèn kết làm anh em và đưa Thạch Sanh về nhà.

Bấy giờ ở trong vùng có một con Trăn Tinh thường bắt người ăn thịt, quan quân nhiều lần vây đánh không được. Vì nó có phép thần thông biến hóa; nhà vua phải cho lập miếu thờ và mỗi năm nộp mạng một người cho nó. Năm ấy đến lượt Lý Thông phải nộp mình. Mẹ con Lý Thông nghe tin hoảng hốt, bàn mưu tính kế đưa Thạch Sanh đi thế mạng. Khi Thạch Sanh đi lấy củi về, Lý Thông đon đả mời chàng uống rượu và nói: “Ðêm nay anh phải đi canh miếu thờ trong rừng, nhưng trót cất mẻ rượu, anh đi sợ hỏng, nhờ em thay anh canh miếu một đêm”. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đi ngay.

Nửa đêm Trăn Tinh hiện về, giơ vuốt, nhe răng hà hơi, nhả lửa, định xông vào miếu ăn thịt Thạch Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh trổ tài đánh nhau với Trăn Tinh, cuối cùng chàng chém được đầu nó, đốt xác nó thành than, và thấy hiện lên trong miếu một bộ cung tên bằng vàng ngời sáng. Thạch Sanh mừng rỡ giắt búa, đeo cung và xách đầu Trăn Tinh chạy thẳng một mạch về nhà. Nghe tiếng Thạch Sanh gọi, mẹ con Lý Thông hoảng sợ, cho là oan hồn của Thạch Sanh sau khi bị Trăn Tinh ăn thịt, trở về nhà oán trách, bèn cất lời cầu khấn, van xin: “Sống khôn, thác thiêng em hãy tạm đi, ngày mai mẹ cùng anh sẽ mua sắm vàng hương, cơm canh, cỗ bàn cúng em chu tất!”. Bấy giờ, Thạch Sanh mới biết rõ tâm địa và mưu kế của mẹ con Lý Thông nhưng chàng không giận, vẫn vui vẻ kể chuyện giết Trăn Tinh cho mẹ con họ Lý nghe. Lý Thông liền nảy ra một mưu thâm độc mới. Nó nói Trăn Tinh là báu vật nhà vua nuôi, ai giết sẽ bị tội lớn. Thạch Sanh lo sợ, Lý Thông bảo Thạch Sanh trốn đi cho an toàn, một mình y sẽ tự lo liệu thu xếp giúp cho.

Sau khi Thạch Sanh từ giã mẹ con Lý Thông trở về gốc đa xưa, Lý Thông đi ngay về Kinh, tâu vua là đã trừ được Trăn Tinh. Nhà vua vui mừng trọng thưởng và phong cho Lý Thông làm Ðô đốc quận công. Tiếp đó, nhà vua mở hội kén chồng cho con gái là công chúa Quỳnh Nga. Hội kén chồng kéo dài hàng tháng nhưng công chúa không chọn được ai vừa ý đẹp lòng. Một hôm công chúa đang dạo chơi vườn đào thì một con chim đại bàng khổng lồ khác sà xuống cắp đi. Thấy chim cắp người bay qua, Thạch Sanh giương cung bắn, đại bàng bị trúng tên vào cánh trái, nó dùng mỏ ngậm tên rút ra rồi bay tiếp về hang ổ. Thạch Sanh lần theo vết máu tìm đến cửa hang đại bàng, chàng đánh dấu cửa hang ác điểu rồi trở lại gốc đa.

Nhà vua sai Lý Thông đi tìm công chúa, tìm được thì sẽ được lấy công chúa, làm phò mã, nối ngôi vua, không tìm được phải chịu tội. Lý Thông vừa mừng, vừa lo, y lập kế mở hội hát xướng mười ngày để nghe ngóng dò la tin tức. Ðến ngày thứ mười, biết tin Lý Thông mở hội, Thạch Sanh đến thăm và kể cho Lý Thông nghe việc bắn chim đại bàng, Lý Thông mừng vui khôn xiết, hậu đãi Thạch Sanh và nhờ chàng dẫn đường đến hang Ðại bàng cứu công chúa.

Thạch Sanh dùng thang dây xuống hang gặp công chúa và đưa thuốc mê cho đại bàng uống. Công chúa hẹn ước kết duyên cùng Thạch Sanh rồi Thạch Sanh buộc dây đưa nàng lên mặt đất. Lý Thông sai quân lính đưa công chúa lên kiệu rước về cung, còn y nói dối là ở lại đánh nhau với quái vật. Sau đó, Lý Thông dùng đá lấp kín cửa hang và trở về triều đình mạo nhận công trạng. Không thấy Thạch Sanh trở về, công chúa buồn thương rầu rĩ và bặt câm, không hé môi nói nửa lời. Nhà vua buồn bã, Lý Thông cầu đảo thuốc thang khắp nơi đều vô hiệu, việc tổ chức cưới xin phải đình hoãn.

Hết liều thuốc mê, đại bàng tỉnh dậy hóa phép thần thông hãm hại Thạch Sanh, chàng dũng sĩ “mặt đỏ mày xanh”, đã dám cả gan “phá nhà, cướp vợ” của nó. Thạch Sanh dùng tài võ nghệ và phép thần thông của mình tiêu diệt được đại bàng. Nhìn lên cửa hang kín bưng không còn một khe hở nhỏ, Thạch Sanh dạo khắp hang động của đại bàng và gặp Thái tử con vua Thủy Tề đang bị yêu quái nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh phá tan cũi sắt giải thoát cho Thái tử. Thái tử mời Thạch Sanh về Thủy Tề gặp vua cha. Vua Thủy Tề cảm ơn và hậu đãi chàng. Trong thời gian lưu lại thủy cung, một hôm Thạch Sanh đang cùng Thái tử dạo chơi thì một con Hồ Tinh xuất hiện, biến thành một cô gái xinh đẹp để cám dỗ, mê hoặc hại chàng. Thạch Sanh bắt nó phải hiện nguyên hình là một con cáo chín đuôi và hóa phép giam nó lại. Vua Thủy Tề mời Thạch Sanh ở lại thủy cung và sẽ phong chức tước cho chàng, nhưng Thạch Sanh từ chối. Vua Thủy Tề tặng Thạch Sanh một cây đàn thần và sai sứ giả rẽ nước đưa chàng trở lại trần gian. Thạch Sanh lại về với gốc đa xưa. Vắng bóng Thạch Sanh cây đa buồn ủ ê, khi Thạch Sanh trở về cây đa lại xanh tươi như cũ. Hồn hai con quái vật bị Thạch Sanh giết (Trăn Tinh và Ðại Bàng) gặp nhau tìm cách hãm hại Thạch Sanh. Chúng vào kho châu báu của nhà vua lấy cắp vàng bạc ném vào gốc đa nơi Thạch Sanh ở. Quân lính nhà vua bắt Thạch Sanh tống ngục, nhà vua giao cho Lý Thông xử tội. Lý Thông khép Thạch Sanh vào tội tử hình để bịt đầu mối. Trong lúc bị giam trong ngục, chờ hành hình, Thạch Sanh đem đàn ra gảy. Cây đàn thần vang lên tiếng tơ, tiếng trúc, cung thảm, cung sầu; cung thì kể tội Lý Thông vong ân, bạc nghĩa, cướp công Thạch Sanh; cung thì trách nàng công chúa sai lời hẹn ước dưới hang (tích tịch tình tang, ai đem công Chúa dưới hang mà về?)…

Nghe tiếng đàn, công chúa bừng tỉnh dậy, cười cười, nói nói. Nhà vua vui mừng nghe công chúa nói rõ ngọn ngành. Lập tức nhà vua hạ lệnh tha cho Thạch Sanh và bắt Lý Thông tống ngục. Tiếp đó, vua làm lễ thành hôn cho Thạch Sanh cùng công chúa và truyền ngôi cho Thạch Sanh. Vua giao toàn quyền cho Thạch Sanh xử tội Lý Thông. Thạch Sanh tha tội cho Lý Thông, cho mẹ con họ Lý về quê quán làm ăn. Nhưng về giữa đường, trời nổi giông gió, mẹ con Lý Thông bạc ác bị sét đánh chết, Lý Thông hóa thành con bọ hung suốt đời chui rúc nơi bẩn thỉu.

Biết tin Thạch Sanh kết duyên với công chúa Quỳnh Nga và lên ngôi trị vì thiên hạ, các hoàng tử, công hầu của mười tám nước chư hầu, những người đã từng kéo đến cầu hôn công chúa không được, vô cùng ghen tức, họ kéo quân đến gây sự với Thạch Sanh và công chúa. Thạch Sanh cùng công chúa ra tiếp đãi họ một cách tử tế. Tiếng đàn thần của Thạch Sanh phân rõ lẽ thiệt hơn, phải trái, làm cho quân sĩ các nước chư hầu mềm lòng, nản chí. Kẻ nhớ mẹ nhớ cha, người thương con nhớ vợ, ai cũng muốn về và ngại việc binh đao, cuối cùng các nước chư hầu đều thuận lui binh. Thạch Sanh mời họ ăn cơm. Chàng có niêu cơm thần nhỏ bé nhưng xới bao nhiêu bát, cơm vẫn đầy lên như cũ, khiến cho các nước chư hầu càng thêm kính phục.

Từ khóa tìm kiếm: So sánh yếu tố kì ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ với yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích "Thạch Sanh" ngữ văn 12 cánh diều, ngữ văn 12 cánh diều So sánh yếu tố kì ảo trong "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ với yếu tố kì ảo trong truyện cổ tích "Thạch Sanh".

Bình luận

Giải bài tập những môn khác