Slide bài giảng ngữ văn 7 cánh diều tiết: Văn bản 3 - Trưa tha hương
Slide điện tử tiết: Văn bản 3 - Trưa tha hương. Kiến thức bài học được hình ảnh hóa, sinh động hóa. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của học môn Ngữ văn 7 cánh diều sẽ khác biệt
Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu
Tóm lược nội dung
BÀI 9: TÙY BÚT VÀ TẢN VĂN
ĐỌC HIỂU: TRƯA THA HƯƠNG
CHUẨN BỊ
- Thông tin về tác giả Trần Cư:
Trần Cư (1918-2002) tại Huế Lăng - Thủy Nguyên - Hải Phòng nhưng quê gốc ở Bát Tràng, Hà Nội. Ông có cả thảy 7 anh chị em nhưng 3 người trong số đó mất sớm. Trần Cư là anh cả, và cũng là người được ăn học đến nơi đến chốn nhất.
Sau khi tốt nghiệp tiểu học CEPFI, Trần Cư thi đậu bằng Thành chung. Trải qua 4 năm ăn học vất vả, Trần Cư tốt nghiệp Cao đẳng tiểu học và thi trúng tuyển vào trường Bảo hộ học bậc tú tài trường Bưởi. Với bao nỗ lực của bản thân và gia đình, Trần Cư lấy được tấm bằng tú tài triết học phần một (năm 1938). Không muốn là gánh nặng thêm cho người thân, ông quyết định thi vào ngành bưu điện Đông Dương, đi làm lấy tiền phụ giúp gia đình, đồng thời học nốt phần hai.
Năm 1941, Trần Cư mới hoàn thành chương trình tú tài toàn phần tại Phnôm Pênh. Sống xa gia đình, bạn bè, cuộc đời của viên thư ký bưu điện ở Kom-phom-chan (Campuchia) thật tẻ nhạt. Ông quyết định xin thôi việc trở về nước, xin dạy môn văn cho trường tư thục Lê Lợi (Hải Phòng).
Được bạn bè mách bảo, Trần Cư tìm đến với báo chí.
Không chỉ sáng tác văn chương, trong năm đầu độc lập (1945-1946), Trần Cư còn viết phóng sự, xã luận, ghi chép, đưa tin về nhiều mảng của đời sống xã hội, từ phong trào diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm, đến việc phản ánh không khí cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Ông thường xuyên có bài trên báo Dân chủ (Việt Minh duyên hải Hải Phòng), tạp chí Tiền phong (Hội văn hóa cứu quốc),…
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Trần Cư theo báo QĐND chuyển về Hà Nội, làm Thư ký tòa soạn. Từ tháng 9-1955, sau chuyến đi Trung Quốc về, ông chuyển sang làm Trưởng phòng Bạn đọc kiêm thêm phòng Văn hóa văn nghệ.
Thấy Trần Cư có “máu” văn nghệ, năm 1965, đồng chí Tổng Biên tập Nhà xuất bản QĐND mời ông về phụ trách phòng Văn nghệ của nhà xuất bản. ở cương vị mới, ông làm tốt chức trách của mình, được đồng đội và đồng nghiệp hết sức kính trọng, nể phục.
Ông tiếp tục chứng tỏ là người có nhiều sáng kiến, đã đứng ra tổ chức, biên soạn nhiều cuốn sách có giá trị, đặc biệt là loại sách Người tốt việc tốt. Không dừng lại ở đó, ông liên tục viết bài cho nhiều tờ báo khác nhau như tạp chí Văn học, Văn nghệ quân đội
CÂU HỎI ĐỌC HIỂU
Câu 1: Từ “nạo” trong câu: “Tiếng võng đưa kẽo kẹt như nạo vào hồn.” diễn tả được những điều gì?
Bài soạn rút gọn:
Diễn tả tâm trạng buồn nhớ da diết quê nhà của tác giả.
Câu 2: Tại sao tiếng hát ru lại khiến nhân vật “tôi” nhớ nhà?
Bài soạn rút gọn:
Vì tiếng hát ru gợi lại những buổi trưa oi ả với tiếng võng đều đều ở ngôi nhà của mình. Nơi đó có thầy, mẹ, vú em, …
Câu 3: Tiếng hát ru đã giúp “tôi” nhận ra điều gì?
Bài soạn rút gọn:
Tiếng hát ru đã giúp “tôi” nhận ra ở giữa gia đình người cái hạnh phúc hằng ngày vẫn có ở chính trong gia đình “tôi”.
Câu 4: Chú ý địa điểm và thời gian được nói tới trong các câu hát ru.
Bài soạn rút gọn:
Địa điểm: xa quê.
Thời gian: buổi trưa
Câu 5: Nhân vật “tôi” thấy hình ảnh gì của quê hương qua tiếng hát ru?
Bài soạn rút gọn:
Những làng tre xanh trên ruộng lúa, với các cô thôn nữ khăn mỏ quạ, những đêm trăng trai gái hát trống quân, những đêm chèo ngày vào đám của quê hương.
CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: Bài tùy bút Trưa tha hương viết về chuyện gì? Đề tài và bối cảnh của câu chuyện có gì đặc biệt?
Bài soạn rút gọn:
Bối cảnh diễn ra câu chuyện nêu ngay ở phần mở đầu: “Một buổi trưa ở Chúp. Nguyên hôm đó là một ngày nghỉ. Tôi đạp xe sang thăm Chúp ở bên kia bờ Cửu Long Giang. Tôi nghỉ chân ở một gia đình người bạn Nam Kỳ. Sau bữa cơm, ai nấy đều sửa soạn đi nghỉ… Bỗng nhiên, ở bên trái, ngoài hiên rộng, nổi lên tiếng võng đưa…Rồi một giọng ru em nổi lên - một giọng người Bắc…”
Câu 2: Tiếng hát ru đã làm nhân vật “tôi” nhớ đến những gì?
Bài soạn rút gọn:
Tiếng hát ru đã làm nhân vật “tôi” nhớ nhà, nhớ về những ngày thơ ấu ở xứ Bắc với biết bao kỉ niệm hiện về: “Tự nhiên tôi nhớ nhà. Phải chăng tôi đã gặp linh hồn của đất nước…tiếng võng đều đều.”
Câu 3: Dẫn ra một số câu văn, đoạn văn thể hiện rõ tình cảm xúc động và những suy nghĩ sâu lắng của tác giả khi nghe tiếng hát ru.
Bài soạn rút gọn:
Một số câu văn, đoạn văn thể hiện rõ tình cảm xúc động và những suy nghĩ sâu lắng của tác giả khi nghe hát ru:
+ “Rồi một lúc lâu, lại tiếp giọng thiết tha, man mác một niềm nhớ tiếc: Khi đi trúc mới mọc măng/ Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre… Tôi bỗng thấy tâm hồn bớt cô đơn hơn một chút. Bởi vì ở chốn xa lạ này, bên vách kia còn có một linh hồn cô đơn hơn, lạnh lùng hơn, nhưng âm thầm, tăm tối hơn, cho nên tha hương hơn nữa …”.
Câu 4: Qua một số câu văn cụ thể trong văn bản, phân tích đặc điểm của tùy bút: ngôn ngữ rất giàu hình ảnh và cảm xúc.
Bài soạn rút gọn:
+ “Rồi xứ Bắc, với những làng tre xanh trên ruộng lúa, với các cô thôn nữ khăn mỏ quạ, những đêm trăng trai gái hát trống quân, những đêm chèo ngày vào đám, tất cả cuộc sống nhịp nhàng, đơn sơ, đầy thi vị ngoài đồng ruộng, trong thôn xóm, tất cả những cái gì rất đẹp của quê hương đều lần lượt hiện về lòng tôi vì câu hát …”.
+ “Ngoài vườn, nắng đẹp vô ngần. Khung cửa sổ đen xanh cắt lên vườn chuối một bức tranh màu hạ nên thơ. Nắng sưởi trên tàu chuối xanh non, chỗ xanh trong, chỗ láng bóng như mạ bạc, phản chiếu lên trần bếp một thứ ánh sáng rất dịu, xanh mướt và thái bình.
Câu 5: Bài tùy bút cho em hiểu thêm được gì về điệu hát ru miền Bắc?
Bài soạn rút gọn:
Điệu hát ru miền Bắc mang cả vẻ đẹp của cả dân tộc chứ không chỉ đơn thuần là câu hát ru con ngủ, nó chứa đựng văn hóa dân tộc nhắc ta nhớ tới cội nguồn cùng những điều thân yêu và gắn bó sâu sắc, làm đậm nét hơn hai chứ “quê hương”.