Slide bài giảng Ngữ văn 11 kết nối Bài 6 Thực hành Tiếng Việt (trang 20)

Slide điện tử Bài 6 Thực hành Tiếng Việt. Trình bày với các hiệu ứng hiện đại, hấp dẫn. Giúp học sinh hứng thú học bài. Học nhanh, nhớ lâu. Có tài liệu này, hiệu quả học tập của học môn Ngữ văn 11 Kết nối tri thức sẽ khác biệt

Bạn chưa đủ điều kiện để xem được slide bài này. => Xem slide bài mẫu

Tóm lược nội dung

THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT

CH1. Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ lặp cấu trúc trong các đoạn thơ dưới đây (trích tác phẩm Truyện Kiều, bản in trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd):

a. 

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

b. 

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?

c.

Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho cho hại cho tàn cho cân!

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!

Trả lời rút gọn: 

a, Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi đây, Kiều chỉ biết lấy cảnh sắc thiên nhiên để diễn tả nỗi buồn sâu thẳm trong thâm tâm mình.

b, Điệp từ "mình" được lặp lại 3 lần nhấn mạnh, hằn sâu nỗi đau đớn và nỗi xót xa của Kiều. 

c, Điệp từ "cho" được lặp lại 6 lần nhấn mạnh bi kịch cuộc đời nàng. Mười lăm năm tha hương là mười lăm năm đoạn trường đầy gian truân của Thúy Kiều. Càng thương Kiều, Nguyễn Du càng yêu quý phẩm chất thanh cao, trong sạch của nàng. Ông đau xót cho một con người hồng nhan bạc mệnh

CH2. Xác định và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ đối trong các đoạn thơ dưới đây (trích tác phẩm Truyện Kiều, bản in trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, Sđd):

a. 

Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,

Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.

Người quốc sắc kẻ thiên tài,

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,

Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn.

Bóng tà như giục cơn buồn,

Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.

Dưới dòng nước chảy trong veo,

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thiết tha.

b. 

Một mình nương ngọn đèn khuya,

Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu:

" Phận dầu dầu vậy cũng dầu

Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!

Công trình kể biết mấy mươi,

Vì ta khăng khít cho người dở dang."

c. 

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường!

Trả lời rút gọn: 

a. Phép đối: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê”, “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo”.

=> Tác dụng: Giúp tác giả tái hiện dễ dàng cuộc gặp gỡ định mệnh của Thúy Kiều - Kim Trọng; làm nổi bật hơn tình cảm của hai người đối với nhau, bên trong đã mến mộ, yêu thích nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra điềm nhiên, ngại ngùng.

b. Phép đối: “Một mình nương ngọn đèn khuya/Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”; “Phận dầu dầu vậy cũng dầu/Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!” 

=> Tác dụng: Nhấn mạnh sự cô đơn, lẻ loi bất lực của Thúy Kiều trong đêm vắng. Nàng tâm sự với chính mình và thương cho số mệnh của mình.

c. Phép đối: “Người về chiếc bóng năm canh/ Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”.

=> Tác dụng: Làm nổi bật cảm nhận của Kiều về cảnh ngộ và số phận hai người. Cả hai đều cô đơn và nhỏ bé như nhau thấm thía một cảm giác lẻ loi bất lực. Qua đó, nhấn mạnh tâm trạng và số phận lênh đênh trôi nổi của nàng.