Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học.

Tuyển tập những bài tập làm văn hay nhất trong chương trình Tiếng Việt lớp 9 bộ chân trời . Có nhiều bài viết hay khác nhau để các em tham khảo. Sau đây, mời bạn đọc cùng tham khảo bài: Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Bài mẫu 1:

Vẻ đẹp của người con gái chẳng còn son sắt khi cô ấy già nua, vẻ đẹp rực rỡ của ánh hoàng hôn khi chiều tàn cũng lụi dần theo màn đêm buông xuống. Trong miền không gian mênh mông, vô định, vạn vật đều từng đẹp đẽ rồi tàn phai ngay khoảnh khắc, duy chỉ có vẻ đẹp của văn chương là vẻ đẹp muôn đời. Song, đâu phải gánh chữ nào cũng nên câu thơ, đâu phải ai cầm bút lên sẽ trở thành thi sĩ, bởi “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” (Nguyễn Văn Siêu). Và nhà thơ Thanh Hải với tác phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” xứng đáng trở thành một trong những tác phẩm “đáng thờ” như thế, để đến tận hôm nay vẫn vẹn nguyên những nét đẹp thuở ban đầu. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời của nhà thơ, mong muốn góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân của đất nước.

Thanh Hải, một cây bút lừng danh trong làng văn chương Việt Nam hiện đại, luôn được nhắc đến với những đóng góp không thể phủ nhận. Ông được biết đến với phong cách viết đặc sắc, nơi ông khéo léo khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và ngợi ca niềm đam mê sống. “Mùa xuân nho nhỏ”, một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, ra đời vào tháng 11 năm 1980, thời điểm đất nước đang chuyển mình sau thời kỳ thống nhất, đối mặt với bao thách thức và khó khăn trong quá trình xây dựng lại từ đống đổ nát. Được sáng tác trước khi ông từ giã cõi đời chỉ một tháng, bài thơ đã trở thành một tâm niệm chân thành, một thông điệp đầy tình cảm mà Thanh Hải muốn truyền lại cho những thế hệ sau.

Khổ thơ đầu trong bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải là một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, thanh tao và tinh tế. Bức tranh ấy được vẽ nên bằng những hình ảnh thơ mộng, ngôn ngữ trong sáng, giản dị mà đầy sức gợi cảm:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Hình ảnh mùa xuân được miêu tả một cách độc đáo. Bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh, gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, tinh khôi của thiên nhiên. Hình ảnh bông hoa tím biếc nổi bật trên nền xanh của dòng sông tạo nên một nét đẹp hài hòa, tinh tế. Điểm xuyến trong bức tranh đó là tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tạo nên âm thanh rộn ràng, náo nhiệt của mùa xuân. Tiếng hót của chim chiền chiện như điểm tô thêm cho bức tranh mùa xuân thêm sinh động, vui tươi. Bên cạnh đó, từng giọt long lanh rơi như những hạt ngọc trai lấp lánh, góp phần làm cho bức tranh mùa xuân thêm huyền ảo. Nhà thơ không miêu tả trực tiếp những cảnh vật mùa xuân quen thuộc như hoa đào, hoa mai, liễu rủ,... mà chỉ tập trung vào những hình ảnh nhỏ bé, tinh tế như bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót, những giọt long lanh rơi. Cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ cũng rất tinh tế. Nếu từ "tím biếc" gợi lên màu sắc dịu dàng, tinh khôi của bông hoa thì từ "vang trời" gợi lên âm thanh rộn ràng, náo nhiệt của tiếng chim hót. Điểm vào đó chút "long lanh" gợi lên vẻ đẹp lung linh của những giọt nước. Qua những hình ảnh thơ mộng, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, nhà thơ đã thể hiện niềm yêu mến thiên nhiên sâu sắc của mình. Thanh Hải xoè bàn tay mình ra để cảm nhận những hương vị ngọt ngào của mùa xuân bằng thái độ trân trọng, nâng niu áp vào trái tim mình. Tác giả đã cụ thể hóa từng giọt mùa xuân như chan hòa vào lòng đất mẹ để muôn hoa khoe sắc thắm, để sức sống dâng trào, để tâm hồn con người tràn ngập niềm vui.

Trong vũ điệu của mùa xuân, ta không chỉ thấy được vẻ đẹp quyến rũ của mùa xuân thiên nhiên mà còn bắt gặp mùa xuân trẻ trung, sôi nổi của con người. Thanh Hải đưa ra hai hình ảnh cụ thể, tiêu biểu của đất nước đó là người lính và người nông dân:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ

Hình ảnh lộc non là biểu tượng của sự sống đang bừng tỉnh. Lộc non, như lá chắn tự nhiên, trở thành dấu hiệu của mùa mới khi được các chiến sĩ mang về. Đó không chỉ là những chiếc lá, mà còn là hiện thân của hy sinh và sự bảo vệ cho mùa xuân yên bình của quê hương, mang lại niềm vui cho từng gia đình. Người lính, tượng trưng cho an ninh hoà bình của Tổ quốc, cùng với người nông dân, những người tiên phong trong việc xây dựng đất nước, tạo nên một bức tranh sống động. Bằng hình thức sóng đôi hài hòa, âm hưởng câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối. Từ bàn tay “Người cầm súng” đến bàn tay của “người ra đồng” đã tô điểm cho mùa xuân đất nước. Sự kỳ diệu từ đôi bàn tay của họ đã tạo nên những mảng màu xanh của hy vọng và niềm tin cho quê hương. Như người lính, lộc mà người nông dân mang lại cũng quý giá không kém, là từng hạt gạo, là bữa cơm no ấm. Họ, với súng trên tay hay cày trên đồng, đều là những hình ảnh đại diện cho sự cống hiến không mệt mỏi, vì một mùa xuân tươi sáng của Tổ quốc. Giai điệu rộn rã của mùa xuân, nhịp sống con người chừng như hối hả hơn, xôn xao hơn: 

“Tất cả như hối hả 

Tất cả như xôn xao." 

Tâm hồn con người hòa quyện vào thiên nhiên, hòa quyện vào giai điệu mùa xuân. Điệp từ "tất cả” như nhấn mạnh nhịp điệu cuộc sống. Lời thơ thể hiện niềm hân hoan, rung động trong tâm hồn tác giả. Các cặp từ láy “hối hả", "xôn xao" vừa gợi cảm vừa gợi hình, nhịp điệu khẩn trương, phấn khởi, rộn rịp, tưng bừng khơi gợi niềm vui náo động trong lòng người. Âm hưởng của mùa xuân tràn ngập cả thiên nhiên, hòa vào tâm hồn con người những niềm rung động. Bất giác Thanh Hải chạnh lòng nghĩ đến quê hương đất nước, âm hưởng câu thơ bỗng trầm buồn, sâu lắng: 

“Đất nước bốn nghìn năm 

Vất vả và gian lao 

Đất nước như vì sao 

Cứ đi lên phía trước." 

Trong giai điệu trầm lắng suy tư, câu thơ như đưa ta trở về với quá khứ bốn ngàn năm lịch sử. Trải dài suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước, Tổ quốc ta đã trải qua bao biến động, thăng trầm. Ngày từ buổi đầu dựng nước, dựng nước đã đứng trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù. Câu thơ khẳng định truyền thống lịch sử lâu đời của dân tộc, qua bao thăng trầm, gian khổ, hy sinh, đất nước vẫn hiên ngang, vững vàng. Nhà thơ đã khéo léo so sánh “đất nước” với “vì sao” sáng ngời trên bầu trời, thể hiện niềm tự hào về vị thế, vai trò của đất nước trên trường quốc tế. Khổ thơ ngập tràn niềm tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước, từ ấy ta có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu quê hương tổ quốc của nhà thơ. Chỉ bằng vài câu từ Cứ đi lên phía trước”, tác giả đã khẳng định sự phát triển không ngừng, hướng đến tương lai của đất nước. 

Trong cảm xúc về mùa xuân đang dâng trào, nhà thơ bỗng muốn hoá thân:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.”

Điệp từ “ta làm” kết hợp với ngôn từ “nhập” như một sự hoá thân của tác giả. Không ồn ào, không xa rời thực tiễn, những điều mà tâm hồn khát sống ấy hướng đến chính là sự giản dị, gần gũi, thân thuộc nhất. Nếu như ở khổ thơ đầu, Thanh Hải gói vào thơ những cảm nhận tinh tế về tiếng hót “long lanh” của chim chiền chiện, về cái mộng mơ của bông hoa tím biếc thì đến với khổ thơ thứ tư, tác giả ước nguyện hóa thân thành con chim hót, nhành hoa. Đây cũng chính là sự gặp gỡ với khát vọng cống hiến của nhà thơ Tố Hữu:

“Nếu là con chim, chiếc lá,

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh.

Lẽ nào vay mà không có trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”

Trong cuộc sống này, mỗi loài chim đều có tiếng hót riêng, mỗi chiếc lá đều mang màu xanh riêng của mình, và mỗi đóa hoa đều rải rác hương thơm ngát. Mỗi người, dù là ai, cũng nên sống thật với chính mình và tạo dựng một cuộc đời đầy ý nghĩa. Đối với Thanh Hải, cuộc sống là những điều giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Nhà thơ mong muốn mình có thể là tiếng hót của chim, là cành hoa đong đưa, hoặc là âm vang sâu lắng trong khúc ca của đời, tất cả đều hướng tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Sống giản dị, theo cách của mình, chính là cách chúng ta đóng góp cho thế giới từ những giá trị bản thân mang lại.

Thanh Hải không chỉ vẽ nên bức tranh xuân căng tràn nhựa sống mà chính nhà thơ lại mong muốn trở thành một phần sức sống của bức tranh xuân. Quả thật, phải rẽ vào từng lời thơ, sống cùng những cảm xúc của tác giả ta mới thấu, mới chiêm nghiệm biết bao những sâu sắc được gửi gắm sau lớp ngôn từ. Ấy là quan niệm sống hòa vào thiên nhiên, sống cống hiến cuộc đời cho mùa xuân đất nước:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời

Dù là tuổi hai mươi

Dù là khi tóc bạc”

Mùa xuân là khái niệm trừu tượng chỉ thời gian. Thanh Hải đã cụ thể hình ảnh "nho nhỏ" thể hiện một tâm hồn bình dị, lặng lẽ cống hiến. Lặng lẽ thôi mà sao đẹp biết bao, dạt dào như sóng triều dâng. Với Thanh Hải, nhà thơ đã lặng lẽ dâng cho đời “mùa xuân nho nhỏ”. Ngôn từ “dâng” ở đây đã chuyên chở biết bao tinh thần tự nguyện của một tâm hồn vẫn mãi hướng trọn về đất nước. Đặc biệt với điệp từ “dù là” kết với hai hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”, “khi tóc bạc”, thi sĩ đã nhấn mạnh hơn nữa đến khát vọng cống hiến dù là tuổi trẻ hay về già. 

Ta có thể thấy, thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ. Những vẫn điệu lời ca của nhà thơ Thanh Hải đều phát khởi từ một tâm hồn luôn ước mơ và mong muốn được cống hiến cuộc đời mình cho mùa xuân đất nước. Hình ảnh “chim hót” hay là “nhành hoa”,... đều khoác lên mình cái giản dị như chính phong cách của ông. Cùng với đó là biện pháp hoán dụ, ẩn dụ và điệp từ đã góp phần nhấn mạnh triết lí sống cống hiến vông cùng ý nghĩa và đúng đắn.

Bụi đã phủ mờ những áng thơ trong “Mùa xuân nho nhỏ”, tác phẩm dần “già đi” theo dòng chảy của năm tháng, nhưng cũng dần “trẻ lại” theo dòng hồi ức của biết bao thế hệ đã ghé ngang. Như Saltykov Shchedrin từng quan niệm: “Văn học nằm ngoài mọi quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”, vượt lên những đổi thay của xã hội và con người, bài thơ sẽ mãi là dư âm vang vọng của một thời đại vàng son, chói lóa, đồng thời khẳng định vị thế của mình trong lòng độc giả hôm qua, hôm nay và ngày sau.

Bài mẫu 2:

Nghĩ về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: “Cái kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể. Muối lắng ở ô nề, thơ đọng lại ở bề sâu”. Đến với những vần thơ trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, không chỉ đọng lại trong lòng bạn đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mùa xuân mà phía sau bề mặt câu chữ là một triết lí sống sâu sắc: sống cống hiến. Ở bài thơ, dường như mỗi vần điệu, mỗi lời ca đều khởi phát từ tình yêu, niềm khát vọng, hiến dâng và lý tưởng cao đẹp của tác giả dành cho quê hương, đất nước. 

Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết đến Thanh Hải – một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông được biết đến với phong cách viết đặc sắc, nơi ông khéo léo khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên và ngợi ca niềm đam mê sống. “Mùa xuân nho nhỏ”, một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, ra đời vào tháng 11 năm 1980, thời điểm đất nước đang chuyển mình sau thời kỳ thống nhất, đối mặt với bao thách thức và khó khăn trong quá trình xây dựng lại từ đống đổ nát. Được sáng tác trước khi ông từ giã cõi đời chỉ một tháng, bài thơ đã trở thành một tâm niệm chân thành, một thông điệp đầy tình cảm mà Thanh Hải muốn truyền lại cho những thế hệ sau.

Mở đầu bài thơ, vũ điệu của mùa xuân đã rót vào tâm hồn Thanh Hải niềm cảm xúc dâng trào. Thật đơn sơ, lặng lẽ mà mùa xuân vẫn hiện về tràn đầy sức sống trào dâng:

"Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc."

Giản dị mà đầm ấm xiết bao! Thanh Hải đã khéo chọn cho mình một bức tranh xuân với gam màu ấm áp, mà dịu dàng, trang nhã. Một màu xanh của dòng sông mênh mông, êm đềm, một màu tím biếc của bông hoa nhỏ bé. Sự sắp xếp hết sức cân đối hài hòa của bức tranh thơ, cái to lớn bao la không lấn át cái nhỏ nhoi, bé bỏng. Điểm xuyết trong bức tranh ấy là những âm thanh quen thuộc đến xao xuyến lòng người:

“Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời”

Khi ánh mắt tác giả dừng lại, tai ông bắt đầu thu nhận những âm điệu của loài chim chiền chiện đang ca hát rộn rã khắp không gian. Loài chim này, biểu tượng của mùa xuân, mang đến niềm vui sống qua tiếng hót vui tươi, phản ánh niềm hạnh phúc của cảnh quan và của chính tác giả. Vẻ đẹp của thiên nhiên ấy khiến nhà thơ muốn gìn giữ mọi khoảnh khắc đó: 

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

Nhà thơ đón nhận mùa xuân bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác. Nhà thơ đưa tay hứng lấy từng giọt gì đang long lanh rơi? Giọt sương chăng? Hay giọt nắng? Hay những giọt âm thanh của tiếng chim? Dù là hạt sương hay tiếng chim, mỗi “giọt long lanh” mà Thanh Hải miêu tả đều là sự chơi chữ khéo léo, đủ sức làm người đọc cảm nhận được lòng yêu quý sâu sắc mà ông dành cho vẻ đẹp của thiên nhiên.

Nổi bật trên nền thiên nhiên đó, chính là hình ảnh con người, đó là hình ảnh những người chiến sĩ, những người nông dân bám mình trên đồng ruộng:

“Mùa xuân người cầm súng

Lộc giắt đầy quanh lưng

Mùa xuân người ra đồng

Lộc trải dài nương mạ

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao…”

Đoạn thơ trên đây là một lời ca ngợi sâu sắc về mùa xuân - mùa của sự sống mới và niềm hy vọng. “Mùa xuân người cầm súng” và “Mùa xuân người ra đồng” là hai hình ảnh đối lập nhưng cùng hòa quyện, tượng trưng cho sức mạnh và sự kiên cường của con người trong hai lĩnh vực khác nhau: bảo vệ và xây dựng đất nước. “Lộc giắt đầy quanh lưng” không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn ẩn chứa ý nghĩa sâu xa về những hy sinh thầm lặng của người lính. Họ mang trên mình không chỉ là lộc non của cây cối mà còn là trách nhiệm và niềm tự hào của một người bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, “Lộc trải dài nương mạ” lại gợi lên hình ảnh của người nông dân cần cù, miệt mài trên cánh đồng. Đó là sự gắn kết giữa con người với đất đai, là sự kiên nhẫn và lòng yêu nghề, tạo nên những thửa ruộng bát ngát, màu mỡ. Cuối cùng, “Tất cả như hối hả” và “Tất cả như xôn xao” phản ánh không khí tất bật, nhộn nhịp của mùa xuân. Đó là sự hối hả trong công việc, là niềm vui sướng khi mùa mới đến, là tiếng cười và sự ấm áp lan tỏa khắp mọi nơi.

Sức sống của mùa xuân đất nước không chỉ được thể hiện qua nhịp độ khẩn trương và sôi nổi, mà sức sống ấy còn được thể hiện qua hào khí đất Việt, qua những trang sử vàng chói lọi của dân tộc:

“Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”

Đất nước ta đã trải qua bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, vậy nên dư âm của nó còn sót lại quá nhiều, dư âm của sự kính cẩn nghiêng mình trước những thế hệ cha anh đã đi xa. Cụm từ "bốn nghìn năm” vang lên thật đỗi tự hào biết bao! "Bốn nghìn năm" ấy như được khắc họa bằng thứ tinh thần thép, thứ tinh thần sắt đá quyết tâm chiến thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc. Đồng thời, sự quyết tâm anh dũng ấy còn có sự tham gia không mệt mỏi của những tầng lớp nhân dân, họ đã cùng những người chiến sĩ can trường làm sáng ngời lên phẩm chất, ý chí và nhất là làm vẻ vang hơn nữa trang sử vàng của nước Việt Nam ta. Trong quãng thời gian đằng đằng "bốn nghìn năm” có biết bao "vất vả" và "gian lao" luôn thường trực để đeo bám, để chặn đứng con đường sống còn của dân tộc ta. Nhưng vượt lên tất cả, đất nước ta vẫn sáng ngời, vẫn đẹp như “vì sao”. Chỉ bằng một hình ảnh so sánh “Đất nước” với “vì sao” và câu khẩu lệnh “cứ đi lên phía trước”, tác giả đã khẳng định sự phát triển không ngừng, hướng đến tương lai của đất nước. Qua đó, thể hiện niềm tin yêu của nhà thơ vào một tương lai sáng ngời của đất nước ta.

Từ ấy, đã khơi dậy trong lòng nhà thơ sự cống hiến cho đời, cho đất nước:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.”

Đến đây, nhịp thơ như nhanh hơn, giọng điệu của thơ vang lên như điệp khúc của một bài ca rạo rực, hân hoan qua điệp ngữ "Ta làm". Nếu ở những khổ đầu, Thành Hải xưng "tôi" để bày tỏ sự cảm nhân tinh tế của riêng mình, thì giờ đây, nhà thơ đã thay thế bằng đại từ "Ta". Tác giả đã nâng những cảm xúc, suy từ của cá nhân, của cái "tôi" riêng tên thành khát vọng hòa nhập vào cái “ta" chung của toàn dân tộc.  “Ta làm con chim hót” và “Ta làm một cành hoa” thể hiện sự hòa nhập và đồng điệu với vẻ đẹp và giai điệu của tự nhiên. Như chim hót ríu rít trên cành, như cành hoa rực rỡ sắc màu, con người cũng là một phần không thể tách rời của đại gia đình muôn loài. Khi “Ta nhập vào hoà ca”, đó là sự giao thoa, là sự đồng cảm sâu sắc với thế giới xung quanh, là khao khát được sống hết mình, đóng góp một phần vào bản giao hưởng của quê hương, của đất nước. Và “Một nốt trầm xao xuyến” không chỉ là một âm thanh, mà còn là một cảm xúc, một rung động tinh tế, một tấm lòng chân thành luôn muốn cống hiến cho tổ quốc, cho đời.

Nếu như những mong ước của Thanh hải được gửi vào khổ thơ trên tựa như khúc nhạc êm ái, nhẹ nhàng thì đến đây, dường như khát khao dâng hiến ấy lại càng cháy bỏng, mãnh liệt hơn:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”

Khổ thơ cuối của bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải mang một thông điệp sâu sắc và đầy tính nhân văn. “Một mùa xuân nho nhỏ” không chỉ là sự miêu tả về một mùa xuân bé nhỏ, mà còn là biểu tượng cho sự sống, cho những đóng góp khiêm nhường nhưng đầy ý nghĩa của con người cho đời. “Lặng lẽ dâng cho đời” thể hiện sự tự nguyện và không cần sự công nhận hay đền đáp. Đây là hình ảnh của sự hy sinh thầm lặng, của lòng vị tha và tấm lòng rộng lớn, sẵn sàng cho đi mà không mong nhận lại. “Dù là tuổi hai mươi” và “Dù là khi tóc bạc” nhấn mạnh rằng không phân biệt tuổi tác, dù trẻ hay già, mỗi người đều có thể đóng góp và dâng hiến cho cuộc sống. Đó là sự khẳng định về giá trị và sức mạnh của sự sống, của tình yêu thương và sự chia sẻ không giới hạn bởi thời gian hay tuổi tác. Tổng thể, khổ thơ cuối cùng này gợi lên một cảm nhận về sự khiêm tốn và lòng nhân ái, về việc sống có ích và ý nghĩa, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời. Đó là một lời nhắc nhở về việc sống hết mình vì một thế giới tốt đẹp hơn, một thông điệp mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua những vần thơ của mình.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, được vận dụng khéo léo giữa các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,... mang một giai điệu thiết tha, nhẹ nhàng tựa như khúc hát dân ca xứ Huế. Ngoài ra, tác giả đã khéo léo sử dụng những hình ảnh thơ đẹp đẽ, gợi hình, gợi cảm và gợi thanh để đưa dòng xúc cảm dạt dào tựa mạch suối ngắm tươi mát, dễ dàng đi vào lòng người. Những nét đẹp của hình thức - phần "xác" của áng thơ đã làm nổi bật lên một trái tim luôn xốn xang trước cảnh xuân của đất trời, một ước vọng giản dị mà thiết tha vô cùng – sống hết mình, sống cống hiến hết cuộc đời của Thanh Hải.

Trang sách đã khép lại nhưng những cảm xúc mà nó mang lại vẫn vang vọng, khơi dậy trong ta những cảm nhận sâu sắc về những tình cảm cao đẹp của con người. Tình yêu với thiên nhiên và khát vọng dâng hiến của Thanh Hải đã chạm đến trái tim của biết bao độc giả. Những vần thơ của ông, với sự nhẹ nhàng và sâu lắng, đã trở thành bài học quý giá về cách sống cao đẹp và ứng xử đầy nhân văn, là nguồn cảm hứng để chúng ta suy ngẫm và sống một cuộc đời xứng đáng với đất nước và nhân dân.


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm: Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học tiếng việt 9 chân trời, tiếng việt 9 chân trời Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học.

Bình luận

Giải bài tập những môn khác