Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá, hai tác phẩm truyện/kí hoặc kịch mà theo bạn là có những điểm tương đồng/khác biệt.

Tuyển tập những bài tập làm văn hay nhất trong chương trình Ngữ văn lớp 12 bộ chân trời . Có nhiều bài viết hay khác nhau để các em tham khảo. Sau đây, mời bạn đọc cùng tham khảo bài: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá, hai tác phẩm truyện/kí hoặc kịch mà theo bạn là có những điểm tương đồng/khác biệt.

Bài mẫu 1: Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá tác phẩm truyện: "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài 

Trong nền văn học Việt Nam, hai tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài đều là những kiệt tác nổi bật, phản ánh sâu sắc cuộc sống khổ cực và số phận bi đát của những con người dưới ách thống trị phong kiến. Tuy có nhiều điểm tương đồng về đề tài và tư tưởng, mỗi tác phẩm lại mang một màu sắc và phong cách riêng biệt, tạo nên những giá trị nghệ thuật độc đáo và riêng biệt.

Cả hai tác phẩm đều lấy bối cảnh xã hội phong kiến tàn bạo và bất công. "Chí Phèo" diễn ra tại làng Vũ Đại, một làng quê nghèo nàn, lạc hậu, trong khi "Vợ chồng A Phủ" diễn ra ở vùng núi cao Tây Bắc, nơi người dân tộc thiểu số Mông phải chịu sự áp bức của giai cấp thống trị địa phương. Đề tài của hai tác phẩm này đều phản ánh số phận đau khổ của những con người bị áp bức, bị đẩy vào đường cùng bởi xã hội phong kiến. Chí Phèo là hình ảnh của người nông dân bị tha hóa, biến chất dưới sự tàn bạo của tầng lớp địa chủ, còn A Phủ và Mị là biểu tượng cho sự khốn khổ của người dân tộc thiểu số bị bóc lột và đàn áp.

Nhân vật Chí Phèo ban đầu là một người nông dân hiền lành, chất phác, nhưng sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, hắn trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Số phận của Chí Phèo là một bi kịch của sự tha hóa, khi hắn muốn làm người lương thiện nhưng không được xã hội chấp nhận, cuối cùng phải chọn cái chết để giải thoát.

Ngược lại, nhân vật A Phủ và Mị trong "Vợ chồng A Phủ" đều trải qua nhiều đau khổ nhưng cuối cùng tìm thấy con đường giải thoát. Mị từng là một cô gái xinh đẹp, tài năng nhưng bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, chịu đựng cuộc sống đầy đọa, không có quyền làm người. A Phủ là chàng trai mạnh mẽ, dũng cảm nhưng cũng bị bắt làm nô lệ cho nhà thống lý. Cả hai đã phải chịu đựng nhiều đau khổ, nhưng cuối cùng đã tìm thấy tự do và hy vọng qua cuộc khởi nghĩa của người dân Tây Bắc.

Nam Cao trong "Chí Phèo" sử dụng bút pháp hiện thực và tâm lý để khắc họa sự tha hóa của Chí Phèo. Những mâu thuẫn nội tâm và diễn biến tâm lý phức tạp của Chí Phèo được thể hiện rõ nét, tạo nên một nhân vật sống động và ám ảnh. Trong khi đó, Tô Hoài trong "Vợ chồng A Phủ" sử dụng bút pháp miêu tả tỉ mỉ, chi tiết, kết hợp với ngôn ngữ giàu hình ảnh để khắc họa cuộc sống và tâm trạng của Mị và A Phủ. Qua sự trưởng thành và thay đổi của Mị và A Phủ, tác giả đã thể hiện sự thức tỉnh và khát vọng tự do của con người.

Nam Cao trong "Chí Phèo" phê phán xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy con người vào con đường tha hóa và bế tắc. Tác phẩm đặt ra vấn đề về quyền được làm người, quyền được sống lương thiện của mỗi con người. Trong khi đó, Tô Hoài trong "Vợ chồng A Phủ" khẳng định sức mạnh của sự đoàn kết và đấu tranh của con người trước sự áp bức. Tác phẩm thể hiện niềm tin vào khả năng tự giải phóng và thay đổi số phận của những người dân nghèo khổ.

Cả "Chí Phèo" của Nam Cao và "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài đều là những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc, phản ánh sâu sắc cuộc sống khổ cực và số phận bi đát của những con người dưới ách thống trị phong kiến. Tuy có những điểm tương đồng về bối cảnh và đề tài, mỗi tác phẩm lại có những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật xây dựng nhân vật và tư tưởng. Qua hai tác phẩm này, ta thấy được giá trị nhân văn sâu sắc và sự phê phán mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến, đồng thời khẳng định niềm tin vào khả năng tự giải phóng và khát vọng sống của con người.

Bài mẫu 2: Bài văn nghị luận so sánh, đánh giá tác phẩm "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam và "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu 

Trong văn chương, nghệ thuật luôn là một phương tiện mạnh mẽ để khám phá và tái hiện hiện thực dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu, hai nhà văn lớn của Việt Nam, đã dùng ngòi bút của mình để khắc họa những bức tranh hiện thực đầy ám ảnh và sâu sắc. Những bức tranh này không chỉ phản ánh những góc khuất, những niềm đau mà còn hé lộ những điều đẹp đẽ và cao cả, qua đó nuôi dưỡng trong ta khát vọng sống và yêu thương, niềm tin vào chính mình và cuộc đời.

Nếu Thạch Lam, với những tác phẩm của mình, đã dựng lên khung cảnh một phố huyện nghèo với những ánh sáng mong manh và niềm hi vọng le lói, thì Nguyễn Minh Châu lại đem đến cho chúng ta một bức tranh hiện thực trần trụi, đầy mâu thuẫn và đau đớn sau ánh hào quang của cuộc chiến.

Thạch Lam, qua tác phẩm "Hai đứa trẻ", đã vẽ lên một khung cảnh phố huyện nghèo nàn, nơi con người sống trong sự mỏi mệt và rệu rã. Câu chuyện bắt đầu với ánh chiều tàn dần, những cửa hàng nhỏ lên đèn, tạo nên một không gian mờ ảo, chia đôi con đường với một bên sáng, một bên tối. Bức tranh này mang đến cảm giác về một hiện thực mong manh, nơi sự đói khổ và tuần hoàn yên ả đã làm tắt đi khát vọng về ánh sáng trong lòng người dân phố huyện.

Những nhân vật như bà cụ Thi, chị Tý, và bác phở Siêu đều hiện lên với những nỗi ám ảnh và chán nản về cuộc sống. Tiếng cười dài của bà cụ Thi, tiếng cười của những cơn say, vang vọng khắp phố huyện như một biểu tượng cho sự tuyệt vọng và rệu rã của kiếp sống. Dẫu vậy, giữa bức tranh buồn bã ấy, vẫn có một tia hi vọng le lói khi đoàn tàu từ Hà Nội đến. Đoàn tàu mang theo ánh sáng, màu sắc và kí ức về một cuộc sống tươi đẹp hơn, như một niềm hi vọng giúp những con người nơi phố huyện nghèo thoát khỏi sự bao trùm của bóng đêm.

Nguyễn Minh Châu, trong tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa", lại đem đến một góc nhìn khác về hiện thực sau chiến tranh. Ban đầu, bức tranh mà Phùng nhìn thấy là một khung cảnh tuyệt đẹp: con thuyền ngoài xa trên mặt biển mờ sương, một hình ảnh yên bình và toàn bích. Tuy nhiên, khi đến gần, Phùng chứng kiến một hiện thực đầy bi kịch: người chồng đánh đập vợ, người đàn bà cam chịu trong im lặng, và đứa trẻ cố gắng giết cha để bảo vệ mẹ.

Hiện thực mà Phùng chứng kiến không chỉ là sự đối lập với bức tranh nghệ thuật mà anh nhìn thấy ban đầu, mà còn là sự phản ánh của một xã hội chưa giải quyết được những vấn đề căn bản sau độc lập. Bức tranh ấy cho thấy những mảng tối của cuộc sống, nơi những giá trị nhân văn bị bóp méo và đổ vỡ. Nghệ thuật, trong mắt Nguyễn Minh Châu, không chỉ là sự tôn vinh cái đẹp mà còn là sự đối diện với những hiện thực trần trụi và đau đớn.

Hai tác phẩm của Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu đều chứa đựng những thông điệp sâu sắc về lịch sử và hiện thực. Thạch Lam phê phán xã hội phong kiến tàn bạo đã đẩy con người vào con đường tha hóa và bế tắc, đồng thời khẳng định quyền được sống và khát vọng hướng tới ánh sáng của mỗi con người. Nguyễn Minh Châu, ngược lại, nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc nhìn nhận và giải quyết những vấn đề còn tồn tại sau cuộc chiến, không để cho ánh hào quang của chiến thắng che lấp những mảng tối của hiện thực.

Qua ngòi bút của Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu, chúng ta thấy được những bức tranh hiện thực đầy đa dạng và sâu sắc. Mỗi tác phẩm đều mang đến những góc nhìn riêng, nhưng chung quy lại đều khẳng định giá trị nhân văn và khát vọng sống, yêu thương. Nghệ thuật, dưới cái nhìn của hai nhà văn, không chỉ là sự phản ánh hiện thực mà còn là sự khám phá và đối diện với những mảng tối của cuộc sống, từ đó nuôi dưỡng trong ta niềm tin và khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá, hai tác phẩm truyện/kí hoặc kịch mà theo bạn là có những điểm tương đồng/khác biệt ngữ văn 12 chân trời, ngữ văn 12 chân trời Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá, hai tác phẩm truyện/kí hoặc kịch mà theo bạn là có những điểm tương đồng/khác biệt.

Bình luận

Giải bài tập những môn khác