Video giảng Lịch sử 9 chân trời Bài 18: Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975

Video giảng Lịch sử 9 Chân trời Bài 18: Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975. Các kiến thức được truyền tải nhẹ nhàng, dễ hiểu. Các phần trọng tâm sẽ được nhấn mạnh, giảng chậm. Xem video, học sinh sẽ dễ dàng hiểu bài và tiếp thu kiến thức nhanh hơn. 

Bạn chưa đủ điều kiện để xem được video này. => Xem video demo

Tóm lược nội dung

BÀI 18: VIỆT NAM TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975

Xin chào các em học sinh thân mến, chúng ta lại gặp nhau trong bài học ngày hôm nay rồi!

Thông qua video này, các em sẽ nắm được các kiến thức và kĩ năng như sau:

  • Mô tả được các thắng lợi tiêu biểu về quân sự của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 – 1975 (đánh bại các chiến lược “Chiến tranh cục bộ”  và  “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ; Tổng tiến công nổi dậy năm 1968, 1972; Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975,…). 
  • Giới thiệu được những thành tựu tiêu biểu trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa (chi viện cho cách mạng Việt Nam, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ). 
  • Nêu được nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

Trước khi bước vào bài học ngày hôm nay, các em suy nghĩ và trả lời: Em hãy nêu một số hiểu biết của bản thân về con đường Trường Sơn – địa danh lịch sử của dân tộc. 

HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC

Nội dung 1: Những thắng lợi quân sự tiêu biểu của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1973)

Em hãy trình bày những thắng lợi quân sự tiêu biểu của nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1973). Những thắng lợi quân sự đó có ý nghĩa như thế nào?

Video trình bày nội dung:

+ Những thắng lợi tiêu biểu của quân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ giai đoạn 1965 – 1973:

• Giai đoạn 1965 – 1968: mở đầu là các thắng lợi ở Núi Thành (Quảng Nam) vào tháng 5 – 1968 và trận Vạn Tường (Quảng Ngãi) vào tháng 8 – 1968. Sau trận Vạn Tường, mở đầu cao trào “Tìm Mỹ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam và khả năng đánh thắng quân Mỹ trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của quân dân miền Nam tiếp tục được chứng minh bằng những thắng lợi trong hai mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967. Trận quyết chiến chiến lược: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.

• Giai đoạn 1969 – 1973: từ tháng 4 đến tháng 6 – 1970, quân đội Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Cam-pu-chia giải phóng năm tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia; đồng thời, từ tháng 2 đến tháng 3 – 1971, liên quân Việt – Lào phối hợp cùng nhân dân đập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn – 719”, buộc quân Mỹ và quân đội Sài Gòn phải rút chạy khỏi Đường 9 – Nam Lào. Năm 1972, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tấn công chiến lược vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu rồi phát triển rộng khắp chiến trường miền Nam. Từ tháng 3 đến tháng 6 – 1972, quân Giải phóng chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của quân đội Sài Gòn là Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.

+ Ý nghĩa của những thắng lợi:

• Giai đoạn 1965 – 1968: các cuộc tiến công và nổi dậy trong năm 1968 đã làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, đặc biệt là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã buộc Mỹ phải tuyên bố “phi Mỹ hóa” chiến tranh xâm lược, chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đến đàm phán ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

• Giai đoạn 1969 – 1973: Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 đã làm xoay chuyển cục diện chiến trường, giáng một đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mỹ phải tuyên bố “Mỹ hoá” trở lại chiến tranh xâm lược.

Nội dung 2: Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương (1965 – 1973)

Theo em: Quân và dân miền Bắc đã đạt được những thắng lợi nào trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 – 1973)? 

Video trình bày nội dung:

+ Những thắng lợi tiêu biểu của quân dân miền Bắc trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 – 1973):

• Chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (từ tháng 2 – 1965 đến tháng 11 – 1968): với

tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, quân dân miền Bắc chuyển mọi

hoạt động sang thời chiến, quân sự hoá toàn dân, đắp công sự, đào hầm, sơ tán,...

vừa chiến đấu, đảm bảo sản xuất và đời sống, vừa tích cực chi viện cho miền Nam

“mỗi người làm việc bằng hai”; Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Kết quả là: Quân dân miền Bắc bắn rơi và bắn cháy 3 243 máy bay (trong đó có 6 máy bay B52 và 3 máy bay F111), diệt và bắt sống hàng nghìn phi công Mỹ, bắn chìm và bắn bị thương 143 tàu chiến và tàu biệt kích. Ngày 1 – 11 – 1968, Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc.

• Chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ tháng 4 – 1972 đến tháng 1 – 1973): quân chủng Phòng không – Không quân đã gấp rút chuẩn bị, sẵn sàng chủ động đánh “pháo đài bay B52” của Mỹ. Từ ngày 18 đến ngày 29 – 12 – 1972, quân dân miền Bắc đã mưu trí sáng tạo đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, lập nên kì tích “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27 – 1 – 1973). Kết quả là: quân dân miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mỹ (trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111); bắn chìm và bắn bị thương 125 tàu chiến, tàu biệt kích; diệt và bắt hàng trăm phi công Mỹ. Riêng trận “Điện Biên Phủ trên không”, quân dân ta đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ (trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111), bắt sống 44 phi công Mỹ, bắn chìm và bắn hỏng 9 tàu chiến.

………..

Nội dung video Bài 18: Việt Nam từ năm 1965 – 1975 còn nhiều phần rất hấp dẫn và thú vị. Hãy cùng đăng kí để tham gia học bài và củng cố kiến thức thông qua hoạt động luyện tập và vận dụng trong video.

 

Xem video các bài khác