Câu hỏi tự luận mức độ vận dụng cao ngữ văn 12 cd bài 6: Tuyên ngôn Độc lập (Hồ Chí Minh)

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Viết dàn ý cho bài văn phân tích Bản tuyên ngôn độc lập?

Câu 2: Viết bài văn phân tích Bản tuyên ngôn độc lập?


Câu 1: 

I. Mở bài

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, dân tộc ta thừa cơ vùng lên giành lại chính quyền. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bản “Tuyên ngôn độc lập” không chỉ là một văn kiện có giá trị lịch sử mà còn là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực; một áng văn tràn đầy tâm huyết, khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của Người và của cả dân tộc. Nó có sức mạnh thuyết phục to lớn, làm rung động hàng triệu trái tim yêu nước Việt Nam.

II. Thân bài

1. Tuyên ngôn độc lập trước hết là một văn kiện chính trị, lịch sử

Là một văn kiện có ý nghĩa chính trị, lịch sử to lớn. Nó khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc, tư thế và chủ quyền của nhân dân đối với đất nước và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền ấy.

“Tuyên ngôn độc lập” được một người soạn thảo, một người đọc tác phẩm ấy, nhưng đó là tiếng nói của cả dân tộc, quốc gia, của một chính phủ:... “Chúng tôi, Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố...; Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng…”. Do đó, Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện của cả quốc gia.

2. Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chương mẫu mực của thời đại

Là văn kiện chính trị, chứa đựng những nội dung chính trị, nhưng đây không phải là tác phẩm khô khan, trừu tượng.

Có hệ thống lập luận chặt chẽ, với những lý lẽ sắc bén, những bằng chứng thuyết phục:

Nêu ra cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn.
Tiếp đến, Hồ Chí Minh đưa ra cơ sở thực tế của chủ quyền dân tộc Việt Nam: tội ác của thực dân pháp về kinh tế, chính trị, quân sự,…, về công khai hóa, bảo hộ của Pháp

Khẳng định dân tộc Việt Nam có quyền trên đất nước mình.

Từ những cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế hết sức đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, Hồ Chí Minh đã đi đến tuyên bố Độc lập:

Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước ta.

Các nước Đồng minh không thể không công nhận chủ quyền độc lập của dân Việt Nam.

Khẳng định quyền Dân tộc Việt Nam có quyền độc lập, tự do.

3. Tuyên ngôn Độc lập chứa đựng tình cảm nồng nhiệt, tâm huyết của người viết

Lời văn “Tuyên ngôn độc lập” có lúc vang lên chắc chắn, vững chãi khi tác giả trích dẫn những bản tuyên ngôn của nước Mỹ, Pháp.

Đau đớn, căm giận khi kể tội giặc Pháp.

Sung sướng, tự hào với sức mạnh quật khởi nghĩa của nhân dân khi đứng lên đánh đuổi phát xít Nhật, giành lấy chính quyền.

Quyết tâm sắt đá khi nói về sự bảo vệ quyền tự do và độc lập của dân tộc.

4. “Tuyên ngôn độc lập” được viết bởi bàn tay điêu luyện của một bậc thầy về ngôn ngữ”

- Câu văn uyển chuyển, sinh động, theo nhịp của giọng điệu bản Tuyên ngôn Độc lập; có những câu đơn, nhưng phần lớn là câu phức, nhiều mệnh đề.

- Sử dụng hàng loạt cấu trúc trùng điệp.

Trùng điệp về từ, ngữ: “Dân ta… Dân ta… Chúng tôi… Chúng tôi… Một dân tộc… Một dân tộc”.

Trùng điệp về câu: “Chúng thi hành… dã man; Chúng lập ba chế độ… đoàn kết; Chúng lập ra nhà tù…; Chúng ràng buộc…”

Trùng điệp về nội dung theo chiều hướng tăng tiến ở nhiều cấp độ.

- Câu văn giàu hình ảnh: thẳng tay chém giết; tắm các cuộc khởi nghĩa … bể máu; bóc lột đến xương tuỷ; nước ta xơ xác, tiêu điều; ngóc đầu lên; quỳ gối đầu hàng…

III. Kết bài

“Tuyên ngôn độc lập” là một kiệt tác bằng cả tài hoa, tâm huyết của Hồ Chí Minh, Người đã thể hiện khí phách của cả dân tộc trước trường quốc tế. Tác phẩm được đánh giá là văn bản chính luận mẫu mực bởi kết cấu chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, thấu tình đạt lý. Câu văn gọn gàng, trong sáng một cách kỳ lạ, có sức lay động hàng triệu trái tim người Việt Nam và cả thế giới. “Tuyên ngôn độc lập” rất xứng đáng là áng văn muôn đời.

“Tuyên ngôn độc lập” (1945) của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước nguy vong: chính quyền cách mạng còn non trẻ hải đương đầu với bao khó khăn chồng chất.

Câu 2: 

Hồ Chí Minh vừa là một lãnh tụ vĩ đại, vừa là một anh hùng đã giải phóng dân tộc, đất nước Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của nô lệ. Bên cạnh đó, Người còn là một cây bút nghệ thuật đầy tài hoa của dân tộc ta. Thơ văn của Bác vừa mang sắc thái cổ điển pha lẫn sắc thái hiện đại và luôn mang lại những giá trị tư tưởng cao. Đặc biệt, trong số những sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản “Tuyên ngôn độc lập” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người, có sức thuyết phục cao đối với độc giả. Tác phẩm này chính là kết quả của bao nhiêu con người đã rơi nước mắt, đổ máu, hi sinh. Đó cũng là kết quả của bao niềm hi vọng và sự tin tưởng của người dân Việt Nam.

Ngay từ những lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập Hồ Chí Minh đã đi thẳng vào vấn đề. Người đã khéo léo đưa ra những cơ sở pháp lý về quyền con người và quyền dân tộc mà không ai có thể chối cãi được để làm nền tảng căn cứ vững chắc cho bản tuyên ngôn. Tác giả trích dẫn hai bản tuyên ngôn bất hủ của Pháp và Mỹ – hai cường quốc hùng mạnh trên thế giới. Với bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Mỹ vào năm 1776, Người đã chỉ ra rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Không chỉ vậy, để làm nổi bật hơn tính phổ biến của những lẽ phải, Người cũng nêu lên trong bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của nước Pháp vào năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã có tác dụng, ý nghĩa vô cùng to lớn, đây là cách nêu dẫn chứng vừa khéo léo vừa kiên quyết. Nó góp phần đảm bảo tính khách quan của bản tuyên ngôn và hơn thế nó còn thể hiện thái độ tôn trọng chân lí chung hay những giá trị tiến bộ được nhân loại thừa nhận của tác giả. Bên cạnh đó, với cách trích dẫn này, Hồ Chí Minh đã sử dụng thành công nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” để dùng lí lẽ của kẻ thù chống lại kẻ thù, đồng thời đánh mạnh vào dã tâm xâm lược nước ta của các thế lực thù địch.

Đặc biệt, hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ chỉ dừng lại ở việc nhấn mạnh quyền con người, thì ở đây Người đã suy rộng thêm về quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là:...quyền sung sướng và quyền tự do”. Điều này thể hiện được sự sáng tạo, tài năng với những lập luận sắc bén của Hồ Chí Minh, câu nói ấy dường như tiếp sức và mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, việc trích dẫn bản tuyên ngôn bất hủ còn mang ý nghĩa sâu xa hơn đó là Bác đã đặt bản Tuyên ngôn độc lập nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn ấy.

Không chỉ dừng lại ở việc nêu lên cơ sở pháp lý, Hồ Chí Minh còn nêu lên những cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn để kết tội thực dân Pháp. Người viết: “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa”. Ở đây cụm từ “Thế mà” đã phần nào nhấn mạnh mở sự trái ngược giữa lí lẽ và hành động của thực dân Pháp. Từ đó, tác giả đã đi sâu để vạch rõ, tố cáo tội ác tày trời của chúng trên đất nước ta. Sau khi kết tội thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp liệt kê: “Về chính trị, chúng tuyệt đối … dân chủ nào”. Trong lĩnh vực chính trị, thực dân Pháp đã đưa ra hàng loạt các “luật dã man” để thực hiện chính sách ngu được tác giả liệt kê cụ thể “lập ba chế độ khác nhau ở ba miền Bắc Trung Nam” để ngăn sự đoàn kết của dân ta và thống nhất đất nước, “lập nhà tù nhiều hơn trường học”, “ràng buộc dư luận”…

Không chỉ vậy, trên lĩnh vực kinh tế, bọn chúng thi hành các chính sách dã man tàn bạo, “bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo đói, thiếu thốn, nước ra xơ xác, tiêu điều’. Để minh chứng cho điều đó, Hồ Chí Minh đã một lần nữa liệt kê ra chi tiết những chính sách mà bọn thực dân Pháp đã thi hành như cướp ruộng đất của nhân dân, đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, bóc lột sức lao động của công nhân vô cùng tàn ác… Những chính sách ấy của bọn chúng đã để lại hậu quả nặng nề cho đồng bào và đất nước ta khi “từ năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ có hơn 2 triệu đồng bào chết đói”. Qua lời văn của Bác Hồ, ta có thể thấy rõ những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên đất nước ta nhiều không thể nào đếm kể. Đặc biệt, tác giả đã sử dụng biện pháp điệp cấu trúc nhằm nhấn mạnh hơn tội ác tàn bạo của bọn giặc, đó là những hành động, việc làm trái với lẽ phải, chính nghĩa, mà tổ tiên chúng đã nêu lên.

Chưa dừng lại ở đó, Người đã đưa ra một loạt những dẫn chứng cụ thể để vạch trần bản chất thật công cuộc “khai hóa” và “bảo hộ” của chúng trước toàn thể nhân dân. Thực chất đó là các chiêu bài về “khai hóa” trong kinh tế – chính trị và đặc biệt là chiêu bài “bảo hộ” khi chỉ trong vòng năm năm thực dân Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật.

Cuối cùng, trong phần cơ sở thực tiễn, Người đã nêu sự thật về cuộc cách mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng của ta chính là cuộc cách mạng chính nghĩa khi “Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh chống Nhật”. Ngoài ra, chúng ta còn thi hành các chính sách khoan hồng và nhân đạo đối với người Pháp “giúp nhiều người Pháp chạy qua biên thùy”, “cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật”…

Có thể thấy, bằng những dẫn chứng cụ thể, rõ ràng, tác giả Hồ Chí Minh đã nêu rõ những tội ác tày trời, man rợ của Pháp và sự thật về cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam ta. Từ đó, Bác đã kết thúc phần hai của bản Tuyên ngôn bằng lời khẳng định được lặp lại đến hai lần “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”, điều đó khẳng định chắc nịch thực dân Pháp không có quyền quay lại Việt Nam.

Trên các cơ sở pháp lý và thực tiễn được tác giả nêu ra, phần cuối của bản Tuyên ngôn chính là lời tuyên bố độc lập. Lời tuyên ngôn hết sức ngắn gọn, nhưng đanh thép và rõ ràng, Người đã trịnh trọng tuyên bố thành lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khẳng định nhân dân, đất nước ta đã hoàn toàn “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháo trên đất nước Việt Nam”, đồng thời tuyên bố Việt Nam là một nước tự do, độc lập.

Cuối cùng, thay mặt cho toàn thể dân tộc ta, một dân tộc vừa giành được quyền tự do độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên lời thề, lời tuyên bố cùng với lòng yêu nước, thương dân, sự quyết tâm chiến đấu để bảo vệ, giữ gìn sự tự do độc lập ấy. Lời tuyên ngôn tuy ngắn gọn, súc tích nhưng bày tỏ rõ thái độ quyết tâm giữ vững độc lập tự do dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng và của nhân dân, đất nước Việt Nam ta nói chung.

Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng thuyết phục cùng giọng văn hùng hồn, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh đã tuyên bố đánh dấu một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam ta. Qua đó tác giả cũng giúp chúng ta hiểu vì sao bản “Tuyên ngôn độc lập” lại được xem là áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại của đất nước ta.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác