Câu hỏi tự luận mức độ nhận biết Ngữ văn 9 KNTT bài 4: Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện)

1. NHẬN BIẾT (3 câu)

Câu 1: Tác phẩm nào là đối tượng phân tích trong bài văn nghị luận của em? Hãy nêu tên tác giả và năm sáng tác.

Câu 2: Nội dung chính của tác phẩm mà em phân tích là gì? Hãy tóm tắt ngắn gọn.

Câu 3: Nhân vật chính trong tác phẩm là ai? Hãy nêu một vài đặc điểm nổi bật của nhân vật đó?


Câu 1:

- Tác phẩm người con gái Nam Xương 

- Tác giả: Nguyễn Dữ

- Năm sáng tác: thế kỷ XVII

Câu 2:

Chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương, tính tình nết na thuỳ  mị, tư dung tốt đẹp. 

- Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà  phụng dưỡng mẹ chồng và nuôi con nhỏ. 

- Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay chu đáo như với cha mẹ đẻ. 

- Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha.

- Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Trương Sinh về  người đêm đêm vẫn đến nhà. 

- Trương Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. 

- Không tự mình giải được oan, phẫn uất, Vũ Thị Thiết đã ra bến Hoàng Giang tự  vẫn. 

- Một đêm, bé Đản chỉ lên bóng và nói với Trương Sinh đó là người đêm đêm thường  đến. 

- Giờ đây chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn. 

- Vũ Nương được Linh Phi cứu đưa về động rùa. Ở đây nàng gặp Phan Lang, người  cùng làng

- Khi Phan Lang được trở về nhân gian, nàng đã gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.  

- Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương. 

- Vũ Nương hiện lên giữa dòng cảm ơn Trương Sinh rồi biến mất.

Câu 3:

Nhân vật Vũ Nương 

+ Vẻ đẹp phẩm chất: 

 Phẩm hạnh tốt đẹp: Ngay từ đầu, Vũ Nương đã được giới thiệu là người con gái  “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Tác giả đã nhấn mạnh ở phẩm  chất đức hạnh của nàng. 

=> Vũ Nương mang đầy đủ vẻ đẹp về nhân cách, phẩm hạnh của người phụ nữ  phong kiến. 

=> Chàng Trương mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về làm vợ.

 +  Người vợ thủy chung :

- Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù  chồng có tính đa nghi, “đối với vợ hay phòng ngừa quá sức” nhưng gia đình  “chưa từng phải đến thất hòa”. 

=> Qua đó thấy được Vũ Nương là người vợ tốt, có cách cư xử khéo léo, biết giữ  đạo làm vợ. 

- Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa đằm thắm, nàng chẳng dám mong vinh hiển mà chỉ cầu cho chồng “khi về mang  theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Vũ Nương cảm thông cho những nỗi  gian nan, vất vả mà chồng phải chịu đựng nơi sa trường: “Chỉ e việc quân khó  liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế  chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền  lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ  bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,  cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.” Xúc động nhất chính là những lời tâm  tình về nỗi nhớ nhung trông chờ khắc khoải của Vũ Nương khi xa chồng. Từng  nhịp, từng nhịp văn biền ngẫu như nhịp điệu của trái tim người vợ trẻ khao khát yêu thương, luôn thổn thức lo âu hướng về nơi người chồng. Tấm lòng của Vũ  Nương khiến ai ai cũng phải xúc động. 

- Khi xa chồng, Vũ Nương càng chứng tỏ những phẩm chất đáng quý. Nàng một  lòng một dạ thủy chung chờ chồng, nỗi buồn tủi, nhớ thương chồng vò võ, kéo  dài qua năm tháng, “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.” 

- Khi bị nghi oan, Vũ Nương tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực trong lòng Trương Sinh, mọi lời nói của của nàng đều một lòng muốn khẳng định tấm lòng và phẩm  hạnh chân chính của mình.  

Người mẹ thương con: Vũ Nương là người mẹ hiền, hết lòng nuôi dạy, chăm sóc  và bù đắp cho đứa con nhỏ bị thiếu vắng tình cha. Bằng chứng cho điều này chính  là hình ảnh chiếc bóng mà nàng đã chỉ trên vách và khéo léo gọi đó là cha của Đản. 

+ Người con dâu hiếu thảo:  

- Trong vai trò một người con dâu, nàng tận tình chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau  già yếu, nàng lo lắng chạy chữa thuốc thang, thành tâm lễ bái thần phật, dịu dàng  lấy lời ngọt ngào khuyên lơn. 

- Lời trăn trối cuối cùng của bà mẹ đã đánh giá cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình: “sau này trời xét lòng lành”, “sau này trời xét lòng lành, ban cho  phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con  cũng giống như con đã chẳng phụ mẹ”. Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong  xã hội xong kiến vốn phức tạp nhưng với một người con dâu thảo hiền như Vũ Nương, người mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến. 

- Khi mẹ chồng mất, nàng đã lo ma chay lễ tế như đối với cha mẹ mình. 

 Sống trọng tình nghĩa, dịu dàng, nhân hậu, coi trọng danh tiết: Vũ Nương khi  được các nàng tiên cứu giúp, được sống đủ đầy trong cung nước, luôn trân trọng  và biết ơn ân đức ấy, nhưng nàng cũng còn nặng tình nặng nghĩa với quê hương,  khao khát được trở về để phục hồi danh dự. 


Bình luận

Giải bài tập những môn khác