Câu hỏi tự luận mức độ nhận biết Ngữ văn 9 KNTT bài 1: Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)

1. NHẬN BIẾT (5 câu)

Câu 1: Trình bày những hiểu biết của em về Truyện kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

Câu 2: Hãy trình bày những thông tin cơ bản về tác giả Nguyễn Dữ cũng như sự nghiệp sáng tác của ông.

Câu 3: Tóm tắt Chuyện người con gái Nam Xương.

Câu 4: Vũ Nương được giới thiệu như thế nào? Qua cách giới thiệu của tác giả, em thấy Vũ Nương là người như thế nào? Cách giới thiệu của tác giả về nhân vật chính như thế nào?

Câu 5: Em hãy tìm chi tiết miêu tả cử chỉ, lời nói của Vũ Nương khi tiễn chồng đi lính? Qua cử chỉ và lời dặn dò ấy giúp em hiểu gì về tình cảm của Vũ Nương với chồng ?


Câu 1:

- Truyền kì mạn lục (quyển sách ghi chép tản mạn những điều kì lạ đang được lưu truyền) gồm 20 truyện ngắn viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi tự sự (có xen văn biền ngẫu và thơ ca). Tác phẩm này được Nguyễn Dữ viết trong thời gian ở ẩn và hoàn thành trước năm 1547. Sự đan xen pha trộn giữa yếu tố hiện thực và yếu tố hoang đường, kì ảo là nét đặc trưng và sức hấp dẫn đặc biệt của những câu chuyện trong tác phẩm. Sau mỗi truyện ngắn đều có một lời bình ngắn (hiện chưa biết là của ai) đề cập đến phẩm chất đạo đức của các nhân vật trong tác phẩm. Chế độ phong kiến Việt Nam cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI nhìn chung vẫn đang trên đà phát triển. Tuy nhiên sự cường thịnh của những giai đoạn trước đó thì đã giảm sút rõ rệt, bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu của sự suy thoái. Trong tập đoàn giai cấp thông trị không còn những vua sáng tôi hiền. - Triều đình nhà Lê với những ông vua nổi tiếng xa hoa đồi bại như Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã gây nên bao nỗi thống khổ cho nhân dân. Ngoài xã hội, tình trạng đạo đức suy đồi, nhân tình thế thái đảo điên đang trở thành một hiện thực phổ biến và nhức nhối.

- Tác phẩm Truyền kì mạn lục là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của Nguyễn Dữ đối với hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Do điều kiện lịch sử, Nguyễn Dữ không thể nói trực tiếp mà phải dùng cách gián tiếp: Mượn chuyện xưa để nói chuyện nay, mượn chuyện thần linh ma quái để nói chuyện người, mượn chuyện cõi âm để nói chuyện cõi dương, cõi trần. Phương pháp này giúp nhà văn có thể tự do tung hoành ngòi bút của mình trên trang giấy và thể hiện được tất cả những suy nghĩ, thái độ, quan điểm của mình về con người, về xã hội.

Câu 2: 

a. Tiểu sử

- Nguyễn Dữ là người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, Hải Dương.

- Ông là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu.

- Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào. 

- Tương truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm và bạn học của Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ 16. Tuy nhiên mối quan hệ giữa ba người (mà phần lớn từ nguồn dân gian lưu truyền trong nhiều thế kỷ nhưng thiếu chứng cứ lịch sử) ngày nay đang gặp phải sự bác bỏ của giới nghiên cứu văn học sử.

- Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà.

- Sau khi đậu Hương tiến (tức Cử nhân), ông làm quan với nhà Mạc, rồi về với nhà Lê làm Tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phú); nhưng mới được một năm, vì bất mãn với thời cuộc, lấy cớ nuôi mẹ, xin về ở núi rừng Thanh Hóa. Từ đó trải mấy năm dư, chân không bước đến thị thành rồi mất tại Thanh Hóa.

b. Sự nghiệp 

- Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền). Theo lời Tựa của Hà Thiện Hán viết năm 1547 thì ông viết ra tập lục này để ngụ ý trong thời gian ẩn cư ở rừng núi xứ Thanh.

- Sách gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, theo thể loại tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình của tác giả hoặc của một người có cùng quan điểm của tác giả. Tác phẩm được Hà Thiện Hán, người cùng thời, viết lời Tựa, Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính, Nguyễn Thế Nghi, dịch ra chữ Nôm; và đã được Tiến sĩ Vũ Khâm Lân (1702-?), đánh giá là một "thiên cổ kỳ bút".

Câu 3:

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua "Truyền kì mạn lục", người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Câu 4: 

- Vũ Nương là người có tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Hơn thế nữa, nàng còn là người vợ thủy chung và là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền. Tuy nhiên, nàng lại có số phận hết sức oan nghiệt.

- Những tính cách cơ bản của Vũ Nương:

+ Thủy chung: Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, không bao giờ để vợ chồng bất hòa. Khi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương không mong chồng "được đeo ấn phong hầu" mà chỉ mong chồng "bình yên" trở về. Rồi đến khi xa chồng, sống trong cảnh đơn lẻ nên "mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi" thì nỗi nhớ chồng lại dâng đầy trong lòng nàng. Việc nàng trỏ bóng trên tường, bảo là "cha Đản" cũng chính là sự an ủi chính mình.

+ Hiếu thảo: Khi Trương Sinh đi lính, nàng đã thay chồng một mình tần tảo vừa chăm sóc mẹ chồng, vừa nuôi dạy con thơ. Mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang, lấy lời khuyên ngọt ngào khuyên lơn"... Khi mẹ chồng mất, nàng đau đớn, xót xa, lo việc ma chay như đối với cha mẹ đẻ. Lời nói của bà mẹ chồng trước khi mất là lời ghi nhận công ơn to lớn của Vũ Nương đối với gia đình chồng "Sanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chặng phụ mẹ".

+ Hiền hậu: Tối tối, Vũ Nương trỏ bóng mình trên tường và bảo đó là "cha Đản". Chi tiết chiếc bóng trên tường đầy ý nghĩa. Vũ Nương muốn an ủi con, bù đắp cho con sự thiếu vắng tình cha. Đồng thời cũng cho thấy được tấm lòng yêu con của người mẹ hiền

Câu 5: 

Khi tiễn chồng ra lính: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trồng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cảnh không bay bổng.”

Qua lời thoại trên,có thể khẳng định nhân vật "nàng"hay Vũ Nương là người con gái đẹp người,đẹp nết. Nàng là người không ham vinh hoa phú quý,luôn coi trọng sự an nguy của chồng cũng như hạnh phúc gia đình. Điều đó cho ta thấy nàng là 1 người vợ chung thủy,1 lòng 1 dạ với người chồng,đồng thời thể hiện vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ VN thời phong kiến.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác