Tóm tắt kiến thức ngữ văn 10 chân trời bài 7: Thư lại dụ Vương Thông
Tổng hợp kiến thức trọng tâm ngữ văn 10 chân trời bài 7: Thư lại dụ Vương Thông. Tài liệu nhằm củng cố, ôn tập lại nội dung kiến thức bài học cho học sinh dễ nhớ, dễ ôn luyện. Kéo xuống để tham khảo
I. TÌM HIỂU CHUNG
a. Hoàn cảnh
Từ tháng 9 năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra BẮc. Nhà Minh phái Thành Sơn Hầu Vương Thông đem năm vạn quân sang cứu viện. Phương Chính, Lí An giao thành Nghệ An cho Thái Phúc dẫn quân ra giữ Đông Quan. Vương Thông mở đợt phản công quân ta nhưng bị thất bại, nên cũng kéo quân về cố thủ ở Đông Quan, số quân ở đây lên tới mười vạn. Thành Đông Quan lúc này bị quân ta vây chặt. Bộ chỉ huy quân ta đóng ở Tây Phù Liệt ( Thanh Trì), nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Vương Thông cùng Sơn Thọ viết thư cho Lê Lợi xin giảng hòa nhưng mục đích là chờ quân tiếp viện. Trước đó, Nguyễn Trãi đã có thư chiêu dụ Vương Thông nhưng y vẫn ngoan cố. Đây là thư dụ hàng thứ mười ba gửi cho Vương Thông tiếp theo Nguyễn Trãi còn gửi bốn thư nữa cho đến khi viện binh Liễu Thăng bị đánh bại thì việc mới thành.
b. Thể loại
Thư lại dụ Vương Thông là thể loại văn nghị luận.
Thư lại dụ Vương Thông được rút ra từ tập Quân trung từ mệnh tập.
c. Mục đích của tác phẩm
Thư lại dụ Vương Thông là bức thư thứ mười ba Nguyễn Trãi gửi cho Vương Thông kêu gọi y đầu hàng để không phải chứng kiến cảnh can qua, máu xương hao tổn không cần thiết mà thất bại vẫn hoàn thất bại. Sau đó, ông còn gửi tiếp bốn bức thư nữa trước khi Vương Thông chính thức đầu hàng.
Tất cả lời lẽ dẫn chứng tình lý đều nhằm thực hiện mục đích ấy.
d. Bố cục của tác phẩm
Bố cục tác phẩm gồm có 3 phần chính là:
+ Phần 1: Từ đầu đến “Sao đủ để cùng nói việc binh được”: nêu cao tư tưởng dùng binh tầm quan trọng của “thời” và “thế”
+ Phần 2: “Trước đây các ông” đến “bại vong có sáu”: Phân tích tình hình trước đây và hiện tại đặc biệt có 6 nguyên nhân dẫn tới bại vong tất yếu của quân giặc.
+ Phần 3: Còn lại: Khuyên giặc ra hàng
II. TÌM HIỂU CHI TIẾT VĂN BẢN
1. Tư tưởng dùng binh và tầm quan trọng của “thời” và “thế”
- Mở đầu bức thư bằng tư tưởng dùng binh. Một trong những tư tưởng quan trọng của binh pháp đó chính là hiểu biết “thời” và “thế”. Cụ thể tác giả viết “Được thời và thế thì biến mất thành còn, hoá nhỏ thành lớn; mất thời không thế thì hoá mạnh ra yếu, yên lại thành nguy”.
- Luận điểm chính được nhăc đến ở phần này là “ Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi” -> răn giặc biết rõ thời thế tiến lùi mới được xem là người dùng binh giỏi.
- Hệ thống lí lẽ chặt chẽ: : “Được thời có thế thì mất biến thành con, nhỏ hóa ra lớn, mất thời thất thế, thì mạnh hóa yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi”
-> Khi có thời thế hay hành động hợp thời thế thì dù gian khó cũng sẽ đi đến thành công. Khi không ó thời thế lại thành động không hợp thời thế thì dù đang hùng mạnh cũng sẽ đi đến thất bại. Sự thay đổi này sẽ diễn ra rất nhanh người dùng binh nên biết điều này.
- Bằng chứng xác thực “Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?”
-> Tướng giặc không hiểu biết thời thế lại dùng lời lẽ ngụy biện để tự dối mình, dối người, đầy là bằng chứng của sự kém cỏi, không đáng mặt cầm quân và khó để thành công.
- Việc sử dụng hình thức gửi thư thay cho việc sử dụng hình thức khác thể hiện hai chức năng và phong cách của hai thể loại khác nhau. Bài nghị luận yêu cầu luận điểm phải rõ ràng, lí lẽ, lập luận phải chặt chẽ, đanh thép, dân cứng phải có cơ sở để thuyết phục đối tượng về mặt lí trí. Bức thư lời lẽ cần mềm dẻo tinh tế, sự bàu giải cần tận tình, tha thiết, chỉ rõ thiệt hơn để thuyết phục đối tượng về mặt tâm lí, tình cảm. Kết hợp cả hai hình thức này tác giả vừa đánh vào tâm lí vừa đánh vào mặt lí trí đối phương nên càng tăng hiệu quả cho bức thư dụ hàng tướng giặc.
2. Tình hình hiện tại và nguyên nhân thất bại của giặc Minh
- Nguyễn Trãi phân tích tình thế “trước” và “hiện nay” của giặc: “Xưa kia Tần thôn tính sáu nước, chế ngự bốn phương, mà đức chính không sửa, nên thân mất nước tan”. “Nay Ngô mạnh không bằng Tần mà hà khắc lại quá không đầy mấy năm nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy”, “huống hồ con cháu vua Trần, mệnh trời đã cho, lòng người đã theo, thì Ngô làm sao có thể cướp được”.
=> Tác giả đưa ra những lí lẽ xác đáng bằng chứng từ thực tế lịch sử như một lời cảnh tỉnh cho giặc tất sẽ thất bại.
- Việc sử dụng là vô cùng cần thiết trong bức thư này vì Triều đình phương Bắc luôn cho mình là “thiên triều” tướng giặc Minh theo lệnh “thiên tử” thi hành “thiên mệnh” đem quân sang nước ta để giúp “phù Trần diệt Hồ”. Bọn giặc làm gì cũng nhân danh “mệnh trời” nhưng thực ra đó là ngôn ngữ xảo trá, lừa bịp để cướp nước ta. Do đó, tác giả đã dùng cách “gậy ông đập lưng ông” vạch rõ sự chính sách và giả danh kèm theo chứng cớ thực tế khiến đối phương không thể biện bạch được.
- Như một lẽ tất yếu khi phân tích tình hình của giặc tác giả đã chỉ ra 6 nguyên nhân chính dẫn đến thảm bại của giặc:
+ Thứ nhất là lũ lụt làm giặc hư hại về cơ sở vật chất, tổn thất quân lương.
+ Thứ hai, đường sá, cửa ải đều bị nghĩa quân Đại Việt đóng giữ, không viện binh nào của giặc tới cứu được.
+ Thứ ba,quân mạnh ngựa khỏe của nhà Minh phải dành để đối phó quân Nguyễn phía Bắc nên phía Nam không lo được.
+ Thứ tư, phát động chiến tranh liên tiếp nhiều năm làm dân nhà Minh khổ sở, bất mãn.
+ Thứ năm, trong triều đình nhà Minh thì bạo chúa, gian thần nắm quyền nội bộ xâu xé nhau.
+ Thứ sáu, Nghĩa quân Đại Việt đồng lòng quyết chiến, hăng hái tinh nhuệ, khí giới, lương thực đầy đủ, quân giặc bị vây trong thành thì mệt mỏi nản lòng.
=> Ở phần này tác giả phân tích rõ ràng, xác đáng kèm theo dẫn chứng từ những thực tế trước mắt không thể phủ nhận. Các nguyên nhân cũng được sắp xếp theo một trình tự hợp lí, đi từ thực tế khó khăn về thiên thời, địa lợi cho đến nhân hòa. Điều này cho thấy giặc hoàn toàn không có cả “thời” lẫn “thế”.
Ngoài ra còn có cách diễn đạt nêu nguyên nhân bằng những lí lẽ phân tích và dẫn chứng ra trước rồi mới kết lại bằng một câu rắn rỏi: “Đó là điều phải thua thứ…” khiến câu văn như lời phán quyết đanh thép, chắc nịch, quyết đoán không ai có thể phủ định.
3. Tinh thần nhân đạo và đại nghĩa của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn cùng dân tộc
- Ở phần cuối này Nguyễn Trãi đưa cho Vương Thông những lựa chọn:
+ Chấp nhận đầu hàng nộp tướng giặc đã gây nhiều tội ac là Phương Chính, Mã Kỳ thì sẽ tránh được thương vong cho quân giặc và tất cả sẽ được an toàn về nước.
+ Không đầu hàng thì phải tiếp tục giao chiến ( sẽ nhận lấy thất bại) chứ không thể trốn tránh một cách hèn nhát, nhục nhã.
- Việc đưa ra những lựa chọn như thế cho thấy Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn luôn thể hiện lập trường “chí nhân” và “đại nghĩa”, lòng yêu chuộng hòa bình và luôn biết tận dụng sức mạnh của ngòi bút văn chương chính luận để thực hiện “tâm công” tránh đổ xương máu cho cả đôi bên.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung
- Tác phẩm kêu gọi Vương Thông đầu hàng để tránh xương máu đổ xuống cho cả hai bên.
- Thể hiện tinh thần chính nghĩa, nhân đạo của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn cùng dân tộc Việt.
2. Nghệ thuật
- Bố cục: chặt chẽ
- Lý lẽ, dẫn chứng xác thực và chi tiết cụ thể.
- Ngôn ngữ linh hoạt lúc mềm dẻo khi đanh thép.
Bình luận