Đọc lại văn bản Chuyện cơm hến trong SGK (tr. 111 – 115) và trả lời các câu hỏi:

Bài tập 4. Đọc lại văn bản Chuyện cơm hến trong SGK (tr. 111 – 115) và trả lời các câu hỏi:

1. Nêu những chi tiết trong văn bản nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế.

2. Có điều gì thú vị trong việc tác giả liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế?

3. Nói về phong cách ẩm thực của người Huế, tác giả cho rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời. Em hiểu thế nào về cách nói đó?

4. Em có nhận xét gì về nguyên liệu và cách chế biến món cơm hến của người Huế? Cách chế biến cơm hến thể hiện điều gì trong cách sống của người dân nơi đây?

5. Nỗi nhớ của người xa quê trong câu ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương có gì tương đồng với nỗi nhớ món cơm hến của tác giả?

6. Em hiểu gì về “bản quyền sáng chế” của món cơm hến? Em có đồng tình với tác giả khi ông nêu quan điểm: Tôi nghĩ rằng, trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản? Vì sao?

7. Cho biết công dụng của dấu ngoặc kép ở từng trường hợp trong đoạn văn sau:

Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,... [...] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ, tiếp theo là một ngày cay “túi mắt túi mũi” để kết thúc với tiếng rao “Ai ăn chè?”, một chén ngọt lịm trước khi ngủ.


1. Những chi tiết trong văn bản nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế: 

- Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi, không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ, là cay và đắng. [...]

- Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải duống( nồi nước sôi xuống để thả mướp vào mới đảm bảo là đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đăng một cách tuyệt vời!

2. Điều gì thú vị trong việc tác giả liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế: 

- Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,..[...] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ”.

3. Nói về phong cách ẩm thực của người Huế, tác giả cho rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời: Có nghĩa là trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải trải qua nhiều hường vị đắng, cay, ngọt , bùi,.. ẩm thực của họ cũng như những kết quả của bản thân khi làm xong một chuyện gì đó, bên cạnh đó cũng hãy đón nhận như một hương vị thức ăn rồi sẽ tốt.

4. 

- Nguyên liệu và cách làm cơm hến sức phong phú và khó. 

- Cách làm cơm hến thể hiện sự kĩ càng, tỉ mỉ trong cách sống của người dân Huế.

5. Nỗi nhớ của những người con xa quê đều có một đẵ điểm chung đó chính là đều nhớ về những thứ hết sức gần gũi và cũng chính là hương vị quen thuộc ở vùng miền đó.

6. " bản quyền sáng chế" đó chính là cách chế biến của một món ăn mà được thoe một công thức nhất định và được gìn giữ. 

- Em. không đồng tình với ý kiến của tác giả bởi mỗi người có một cách thưởng thức món ăn là khác nhau, nên mỗi món ăn khi đi qua từng vùng miền lạ được biến tấu khác đi để phù hợp với khẩu vị của người ở vùng đó. 

7. 

- Công dụng của dấu ngoặc kép đó chính là nêu lên nhưng gì nổi bật của món ăn cơm hến, làm người đọc có thể thấy đươc nét đặc biệt trong món ăn này.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác