Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi

Bài tập 7. Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Ngước mái đầu hói, riềm tóc lơ thơ đã bạc hết, ông Bằng chắp hai tay trước ngực. Khói hương và khung cảnh trầm tĩnh đưa hiện tại về quá khứ. Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiệntầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao. Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của gia tộc, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, con như thấy từ trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi nảy nở, phúc thọ an khang của cháu con đời đời nối tiếp trong cộng đồng dân tộc yêu thương. Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng, dắt dìu tôi cùng các cháu, các con, các em,

Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân tiên tổ và những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thoát trần. Nhưng ông chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây phút. Quả khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết một mạch bền chặt thuỷ chung. Bởi vậy, ông lại trở về với những ngày đang sống, với những người đang sống. Mắt ông bỗng cay sè. Lòng ông bồn ngộn. Và ông vội củi xuống, bật trên môi những lời cầu khẩn thành kính và run rẩy:

– Hôm nay ngày ba mươi tháng Chạp năm Bính Tuất, buổi tất niên, con cùng các nam tử, nữ tử, tôn tử,...

Rồi theo lời cha, Luận bỗng bấm tay Đông. Mặt Luận biến sắc. Rõ ràng là khi kể tên các con trai, ông cụ đã gạt tên thằng Cừ. Lý ngọ nguậy không yên, lát sau, ghé tai chị Hoài, hí hửng: “Chị ơi, em biết khẩn đúng bài kinh nhà Phật cơ. Mắt chị Hoài đăm đắm ngước lên bàn thờ. Và khi ông Bằng vừa buông tay chắp, rút mùi soa lau mắt, lui ra, chị liền thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực.

(Theo Ma Văn Kháng, Mùa lá rụng trong vườn, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1987, tr. 68 – 69) 

1. “Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao. Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn văng vẳng nghe đâu đây lời giáo huấn của ông cha, tiên tổ: Ba câu trên liền nhau nhưng lại có sự thay đổi đột ngột về điểm nhìn trần thuật. Sự thay đổi thể hiện như thế nào? Nêu tác dụng của việc thay đổi đó.

2. Cúng gia tiên là một sinh hoạt văn hoá tâm linh trong gia đình người Việt Nam. Tính chất thiêng liêng của hoạt động đó được thể hiện như thế nào ở đoạn trích này?

3. Phân tích ý nghĩa những lời tâm sự của ông Bằng trước bàn thờ gia tiên.

4. Tác giả thể hiện thái độ như thế nào khi miêu tả không khí lễ cúng gia tiên của gia đình ông Bằng? Điều đó có ý nghĩa gì?

5. Hãy phân tích tác dụng của biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở câu: “Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng, dắt dìu tôi cùng các cháu, các con, các em,..


Trả lời: 

1. Sự thay đổi đột ngột về điểm nhìn trần thuật: Ba câu này không phải do một người nói ra. Câu trước là lời người kể chuyện. Hai câu sau là lời của ông Bằng. Đây là dấu hiệu cho thấy điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba đã hoà nhập vào điểm nhìn của nhân vật.

=> Tác dụng của việc thay đổi điểm nhìn: Tạo nên sự đồng điệu về tình cảm, cảm xúc, và do vậy, mạch kể cũng trở nên linh hoạt hơn.

2. Tác giả đã làm nổi bật tính chất trang trọng, thiêng liêng của buổi lễ cúng gia tiên ngày tất niên ở gia đình ông Bằng, thể hiện: “ông Bằng chắp hai tay trước ngực”; “mắt chị Hoài đăm đắm ngước lên bàn thờ"; khi ông Bằng khấn xong, rút khăn mùi soa lau mắt; chị Hoài thể chân ông cụ; lời tâm sự, lời khẩn chân thành, xúc động trước bàn thờ cho thấy sợi dây kết nối tinh thần bền chặt, dù âm dương đôi ngả.

3. Trước bàn thờ gia tiên, lời khấn của ông Bằng thực chất là những lời tâm sự chân thành. Ông cảm thấy không bao giờ được quên những lời giáo huấn của tổ tiên, công ơn sinh thành, dưỡng dục và những kì vọng của bố mẹ về sự tiếp nối đời đời các thế hệ trong gia tộc trong quan hệ với cộng đồng dân tộc. Ông cũng cảm nhận được rằng, vợ và con trai vẫn như đang có mặt, chia sẻ, nâng đỡ, dìu dắt từng thành viên trong gia đình.

4. Lễ cúng gia tiên của gia đình ông Bằng được thuật lại bằng lời của người kể chuyện ngôi thứ ba, và dĩ nhiên đó không phải là tác giả. Thế nhưng, qua đó, ta vẫn nhận thấy tác giả rất trân trọng những gì thuộc về giá trị tinh thần thiêng liêng, những nét đẹp văn hoá truyền thống của cộng đồng, dân tộc thông qua sinh hoạt gia đình. 

5. Câu “Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng, dắt dìu tôi cùng các cháu, các con, các em,... có hai chuỗi liệt kê.

- Chuỗi thứ nhất: “hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng, dắt dìu” cho thấy trong tâm thức của ông Bằng, vợ và con ông vẫn như đang hiển hiện và hết lòng độ trì cho những người thân còn sống

- Chuỗi thứ hai: “các cháu, các con, các em,.. nói đến các thành viên trong gia đình.

=> Tác dụng: Biện pháp tu từ liệt kê nhấn mạnh tầm quan trọng của vợ và con trong tâm thức của ông Bằng, vợ và con ông vẫn như đang hiển hiện và hết lòng độ trì cho những người thân còn sống.


Từ khóa tìm kiếm Google: Giải SBT Ngữ văn 10 kết nối bài 7: Quyền năng của người kể chuyện (Đọc và Thực hành tiếng Việt) giải SBT văn 10 tập 2 kết nối tri thức, giải SBT ngữ văn 10 kết nối tri thức bài 7

Giải những bài tập khác

Bình luận

Giải bài tập những môn khác