Câu hỏi tự luận mức độ thông hiểu Ngữ văn 11 cánh diều bài 1: Sóng

2. THÔNG HIỂU (5 câu)

Câu 1: Giữa sóng và em trong bài thơ có mối quan hệ như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật kết cấu của bài thơ? Người phụ nữ đang yêu tìm thấy sự tương đồng giữa các trạng thái của tâm hồn mình với những con sóng. Hãy chỉ ra sự tương đồng đó.

Câu 2: Hình tượng sóng và em được nhà thơ xây dựng với dụng ý nghệ thuật như thế nào?

Câu 3: Theo em, vì sao bài thơ đã sống được rất lâu trong lòng độc giả?

Câu 4: Hãy phân tích 4 khổ thơ đầu của bài thơ.

Câu 5: Hãy phân tích 5 khổ thơ cuối của bài thơ.


Câu 1: 

– Sóng là hình ảnh, là biểu tượng cho tâm hồn người con gái – một kiểu của cái tôi trữ tình nhập vai. Em là cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng và em, tuy hai mà một, có lúc phân chia, có lúc lại hoà nhập để nói lên những nét, những phương diện phong phú, phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn nhưng thống nhất trong tâm hồn người con gái đang yêu.

– Bài thơ được kết cấu trên cơ sở nhận thức sự tương đồng, hoà hợp giữa hai hình tượng trữ tình: sóng và em. Sóng biển xôn xao, triền miên vô tận gợi liên tưởng đến sóng lòng dào dạt, tràn đầy khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. Song hành với sóng là em. Cấu trúc song hành này góp phần tạo nên chiều sâu nhận thức và nét độc đáo cho bài thơ.

 Câu 2: 

– Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh, chưa có trong các bài thơ tình nào.

– Nhà thơ dựng lên hai hình tượng sóng và em song hành suốt theo mạch bài thơ như một cộng hưởng để nói lên những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp và tinh tế trong tình yêu: vừa dữ dội vừa dịu êm, vừa ồn ào vừa lặng lẽ: “Nỗi khát vọng tình yêu – Bồi hồi trong ngực trẻ”. Hình tượng sóng được hình tượng em bổ sung, đồng vọng: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu từ đâu?”, còn “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Sóng nhớ bờ “Ngày đêm không ngủ được” thì “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Sóng thì “Con nào chẳng tới bờ” còn em thì “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh – một phương”.

- Bài thơ mượn hình tượng sóng để nói chuyện tình yêu. Nhưng sóng không phải là một ẩn dụ hoàn chỉnh. Ẩn dụ ấy được giải thích ngay từ nửa sau của khổ thơ thứ hai, không đợi người đọc phải suy đoán, phải tìm cách “giải mã” dẫu rằng cuộc giải mã vẫn cần được tiếp tục ở một cấp độ cao hơn... Xuân Quỳnh bày tỏ nồng nàn, cùng kiệt nỗi yêu thương và khát vọng của mình. Khi cần, chị đứng ra thuyết minh trực tiếp. Chẳng hạn, sau khổ thơ miêu tả những con sóng dưới lòng sâu, trên mặt nước, ngày đêm không ngủ được vì nhớ bờ, chị “bồi” thêm hai câu rất đột ngột, phơi lộ cái tôi của mình:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức...

=>Khi hoá thân vào sóng, khi đứng hẳn ra xưng em một mà hai, hai mà một, cái tôi Xuân Quỳnh lúc nào cũng trăn trở không yên. Vừa bộc lộ gián tiếp lại vừa giãi bày trực tiếp, khi ẩn, khi hiện, đấy mới chính là “nhịp sóng” ngầm của bài thơ, quy định những xao động bề mặt, biểu hiện qua câu chữ và âm điệu nhịp điệu tương đối dễ thấy...

Câu 3:

Tạo được một hiệu quả nghệ thuật lâu bền như vậy vì bài thơ đã nói được rất hay và rất đúng về một tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ và quý giá của con người mọi thời đại. Đó là tình yêu.

– Cái hay là những đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ như kết cấu độc đáo của hình tượng sóng và em, âm hưởng và giọng điệu bài thơ, thể thơ năm chữ,...

– Cái đúng chính là sự nhận thức và phát hiện khá tinh tế, sâu sắc những tình cảm, những trạng thái tâm hồn con người ta khi yêu nhau “Bồi hồi trong ngực trẻ”, khát vọng lí giải tình yêu đến từ đâu và tự lúc nào: “Sóng bắt đầu từ gió – Gió bắt đầu từ đâu? – Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”. Yêu là nhớ, yêu là mong đợi, yêu là khát vọng chung tình và chung thuỷ,...

Câu 4: 

Trong 4 khổ thơ đầu của bài thơ, nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức những đặc tính, những phẩm chất, những trạng thái tâm lí bí ẩn, riêng tư, đầy nữ tính của một trái tim phụ nữ đang say đắm trong tình yêu.

- Khổ 1: Những câu thơ trong khổ đầu miêu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ gợi sự liên tưởng sâu xa, tinh tế tới tình yêu của người phụ nữ.

+ Hai câu đầu miêu tả sự thất thường muôn đời của sóng gợi liên tưởng thật tự nhiên đến trái tim người con gái khi yêu; tình yêu luôn là sự thống nhất kì lạ của những mâu thuẫn, luôn mang trong mình những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp, đầy biến động:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

+ Tới hai câu sau, sóng được đặt trong mối quan hệ với sông và bể; ý nghĩa ẩn dụ giúp nhà thơ khám phá nét tương đồng giữa tình yêu và sóng, đó là đều khao khát vươn tới sự lớn lao, phóng khoáng:

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

- Khổ 2: Cấu trúc cảm thán và ý nghĩa ẩn dụ của hình tượng đã thể hiện sự tương đồng giữa sóng và tình yêu: Cũng như những con sóng muôn đời dào dạt, sôi nổi trong lòng biển, tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người, mà mãnh liệt nhất là ở tuổi trẻ.

- Khổ 3, 4:

+ Con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn và cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tâm hồn luôn trăn trở của Xuân Quỳnh cũng thường trực nỗi khắc khoải tự nhận thức về mình cùng những băn khoăn, suy ngẫm về tình yêu. Suy ngẫm hiện lên trong các câu hỏi dồn dập như những con sóng miên man không dứt.

+ Câu trả lời chung cho thấy cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa, đều không có lí lẽ hay quy luật – nếu có thì đấy cũng là quy luật riêng của trời đất, lí lẽ riêng của tình yêu.

Câu 5: 

Trong 5 khổ cuối của bài thơ, nhân vật trữ tình thông qua sóng để tự biểu hiện những nỗi niềm, cảm xúc; tan vào sóng để dâng hiến và bất tử.

- Khổ 5: Nỗi nhớ và những dự cảm trong tình yêu

+ Trong 4 câu thơ đầu, nhà thơ miêu tả sắc thái của sóng, quan sát sóng bằng trái tim đang yêu, mượn sóng để thể hiện trước hết là nỗi nhớ – trạng thái cảm xúc luôn gắn liền với tình yêu.

+ Hai câu sau trực tiếp bộc lộ cả nỗi nhớ cùng những dự cảm, lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá nhiều những trải nghiệm đắng cay.

- Khổ 6: Bản lĩnh của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là sự thuỷ chung son sắt bất chấp mọi thử thách, mọi khó khăn trắc trở.

- Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu

Nếu khổ 6 thể hiện sự thuỷ chung son sắt của người phụ nữ trong tình yêu thì tới khổ 7, thông qua hình tượng sóng, nhà thơ đã mượn chính quy luật khách quan của trời đất để kiểm chứng và khẳng định niềm tin vào sự thuỷ chung của mình, niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của tình yêu khi con sóng nhớ bờ của khổ 5 đã trở thành con sóng tới bờ trong khổ 7.

- Hai khổ cuối: Tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử

+ Khổ 8 tiếp tục mở ra những trăn trở, nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và sự hữu hạn của đời người, nhất là của tình yêu. Cảm giác này thường xuất hiện ở những con người từng trải, từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương và vì thế luôn khát khao sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn.

+ Cảm giác về sự hữu hạn khiến Xuân Diệu tìm đến một giải pháp mãnh liệt đầy nam tính, đó là vội vàng tận hưởng cuộc đời một cách say sưa, ham hố khi còn có thể; còn Xuân Quỳnh lại mong ước được hi sinh và dâng hiến, cũng là mong được sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu. Khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành, táo bạo và cũng thật nhân hậu, vi tha.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác