Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của truyền thuyết Thánh Gióng

Tuyển tập những bài tập làm văn hay nhất trong chương Ngữ văn lớp 10 bộ chân trời sáng tạo. Sau đây, mời bạn đọc cùng tham khảo bài: Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của truyền thuyết Thánh Gióng.

Đề bài: Viết bài văn nghị luận phân tích đánh giá chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của truyền thuyết Thánh Gióng. 

Bài tham khảo 1:

Trong kho tàng truyền thuyết Việt Nam, chủ đề đánh giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước là chủ đề phổ biến. Một trong những truyền thuyết thuộc chủ đề trên không thể không nhắc đến “Thánh Gióng”.

Truyện nằm trong hệ thống truyền thuyết về thời đại Hùng Vương dựng nước. Qua câu chuyện này ta thấy ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã phải đối mặt với nạn giặc xâm lược, công cuộc dựng nước luôn gắn liền với công cuộc giữ nước, đồng thời thấy được tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của ông cha.

Hình tượng Thánh Gióng là biểu tượng cho tinh thần yêu nước, sức chiến đấu kiên cường, quật khởi của dân tộc ta. Thánh Gióng được sinh ra một cách thần kì, bà mẹ đi ra đồng ướm chân vào một bàn chân lớn, về nhà bà thụ thai, mười hai tháng sau sinh ra Thánh Gióng – một cậu bé khôi ngô tuấn tú, nhưng lên ba vẫn chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đấy. Và cậu bé ấy chỉ cất tiếng nói khi nghe sứ giả tìm người đi đánh giặc. Lời nói đầu tiên của cậu chính là lời xin đi đánh giặc cứu nước, điều đó cho thấy ý thức công dân của con người phi thường này.

Kể từ hôm gặp sứ giả, Thánh Gióng cơm ăn không biết no, áo mặc mấy cũng không vừa. Điều đó khiến cho bố mẹ Gióng phải nhờ đến dân làng giúp sức, mang gạo sang nuôi Gióng. Chi tiết này cho thấy rõ lòng yêu nước và sức mạnh tình đoàn kết của dân tộc ta. Khi có giặc đến dân ta đồng lòng, giúp sức để đánh đuổi giặc xâm lược, hơn thế nữa sự trưởng thành của người anh hùng Thánh Gióng còn cho thấy, sự lớn mạnh của Gióng xuất phát từ nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng mà lớn lên. Gióng lớn nhanh như thổi. Khi giặc đến chân núi Trâu cậu bé ba tuổi vươn vai trở thành một tráng sĩ, oai phong và lẫm liệt. Sự lớn lên của Gióng càng đậm tô hơn mối quan hệ giữa sự nghiệp cứu nước và người anh hùng. Để đáp ứng yêu cầu lịch sử, Gióng phải lớn nhanh để phù hợp với hoàn cảnh của đất nước, Gióng phải khổng lồ về vóc dáng, ý chí thì mới có thể đảm đương được trọng trách lúc bấy giờ.

Bằng sức mạnh phi thường, Gióng đánh tan hết lớp giặc này đến lớp giặc khác. Khi roi sắt gãy, Thánh Gióng không hề nao núng, nhổ những bụi tre ven đường để tiếp tục chiến đấu với kẻ thù cho đến khi chúng hoàn toàn bị tiêu diệt. Để làm nên những chiến công thần kỳ, không chỉ có những thứ vũ khí hiện đại (roi sắt, áo giáp sắt) mà còn là cả những vũ khí thô sơ nhất (bụi tre). Sau khi đánh tan giặc xâm lược, Gióng đến chân núi Sóc rồi bỏ lại áo giáo một mình một ngựa bay về trời. Người anh hùng sau khi hoàn thành nhiệm vụ cứu nước không màng danh lợi, phần thưởng, trở về tiên giới. Gióng đến trần gian chỉ với một mục đích duy nhất đó là dẹp quân xâm lược để mang lại bình yên cho nhân dân, cho đất nước. Điều đó càng đậm tô hơn nữa phẩm chất anh hùng của Thánh Gióng. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện sự bất tử của Gióng trong lòng nhân dân. Gióng về trời cũng là về cõi vô biên, bất tử mãi mãi trường tồn cùng đất nước, dân tộc.

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố thần kì (sinh nở thần kì, lớn nhanh như thổi, bay về trời) với hình tượng người anh hùng. Thánh Gióng là một hình ảnh đẹp đẽ biểu tượng cho lòng yêu nước và sức mạnh quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm xâm lược.

Bài tham khảo 2:

Truyền thuyết Thánh Gióng là một truyền thuyết vô cùng nổi tiếng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

Đây là một truyền thuyết được xếp vào loại hay nhất diễn tả lòng yêu nước của nhân dân. Tình yêu đất nước là một tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân nước Việt. Tình cảm đó được nảy nở từ lâu đời, từ rất xa xưa. Dân ta yêu nước nên khi có giặc xâm lược, ai cũng muốn chống giặc để cứu nước. Mà khi đứng lên bảo vệ đất nước, ai cũng cảm thấy mình như lớn lên, mạnh thêm. Và khi đuổi giặc ra khỏi bờ cõi, con người lại trở về cuộc sống những ngày trước đó. Thánh Gióng là hình ảnh tiêu biểu cho nhân dân ta, là hình tượng người anh hùng đánh giặc giữ nước đầu tiên trong lịch sử đất nước.

Câu chuyện diễn biến theo những sự kiện chính như: Sự ra đời kì lạ của Thánh Gióng; Thánh Gióng nhận đi đánh giặc và lớn vụt lên thật kì lạ; Thánh Gióng đánh giặc và khi dẹp xong giặc thì bay lên trời cũng rất kì lạ; Dấu tích còn lại đến giờ.

Nhân dân ta vốn quan niệm rằng người anh hùng phải là người có ngoại hình, tài năng phi thường. Bởi vậy mà nhân vật Thánh Gióng được sinh ra một cách kì lạ. Mẹ Gióng có thai do “ướm chân mình vào vết bàn chân không lộ”. Mẹ Gióng mang thai không phải là chín tháng mười ngày như mọi phụ nữ khác mà là mười hai tháng. Đến khi sinh ra, cậu bé Gióng đã lên ba tuổi rồi mà vẫn chưa biết nói biết cười, ai đặt đâu thì ngồi đấy.

Thực ra Gióng không phải là đứa trẻ tật nguyền. Ba năm không nói năng chi nhưng lời nói đầu tiên của Gióng là lời nói yêu nước. Ngay sau khi sứ giả ra về, Gióng bỗng thay đổi. Dân gian truyền tụng rằng ăn thì “bảy nong cơm với ba nong cà”; uống thì “uống một hơi, nước cạn đi khúc sông”. Vậy là Gióng cũng được nuôi dưỡng bằng cơm, gạo, những thứ vẫn nuôi sống con người. Gióng không hề xa lạ với nhân dân, được nuôi dưỡng bằng chính nhân dân.

Khi sứ giả đem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến, Gióng mới “vùng dậy, vươn vai một cái bồng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt”. Dân gian kể rằng: “Ngựa của Gióng phun ra lửa, thiêu cháy bao quân giặc; ngọn roi của Gióng làm quân giặc chết như ngả rạ. Ai cũng theo Gióng đi đánh giặc - từ quan đến dân, từ già đến trẻ, từ đàn ông đến đàn bà. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường để đánh giặc”. Cây tre quê hương lúc đó cũng lập công cùng con người. Gióng đã đánh giặc bằng sức mạnh kì diệu của sắt, bằng tất cả những gì mà quê hương đất nước ban cho.

Giặc tan, đến chân núi Sóc, Gióng trút bỏ bộ áo giáp sắt rồi “cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời”, biến mất. Từ đó, nhân dân muốn gửi gắm mong muôn bất tử hóa người anh hùng.

Đoạn cuối truyện giới thiệu về những dấu tích còn lại. Ở huyện Sóc Sơn (ngoại thành Hà Nội) vẫn còn đền thờ Thánh Gióng. Ngày hội làng - Hội Gióng hằng năm, nhân dân văn biểu diễn mô phỏng cách đánh giặc ngày xưa. Nhân dân vẫn tin rằng : những bụi tre cháy, những vết chân ngựa lún thành hồ ao là có thật cốt để chứng minh lòng yêu nước của nhân dân ta có từ ngàn xửa ngàn xưa.

Thánh Gióng là một truyền thuyết lịch sử. Từ đó, nhân dân ta cũng gửi gắm nhiều bài học nhân văn, ý nghĩa.

Bài tham khảo 3:

Thánh Gióng là một truyền thuyết hay khi viết về truyền thống đánh giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước.

Trong nhiêu năm, nhân dân ta đã phải chịu áp bức, bóc lột của kẻ thù xâm lược. Hình ảnh Thánh Gióng là biểu tượng của tinh thần yêu nước, sức mạnh chiến đấu kiên cường của nhân dân ta. Thánh Gióng sinh ra một cách kỳ diệu, người mẹ ra đồng đặt chân lên một vết chân to, mang thai mười hai tháng sau mới sinh ra Thánh Gióng - một cậu bé đẹp trai, nhưng đã lên ba mà vẫn không thể nói, cười, đặt đâu ngồi đó.

Và cậu bé đó chỉ lên tiếng khi nghe tin sứ giả đang tìm kiếm ai đó để đánh giặc cứu nước. Sau tiếng nói đó, Gióng ăn mấy cũng không no. Nhân dân còn góp công nuôi lớn Thánh Gióng. Từ đó, chúng ta thấy được Gióng lớn lên chính là nhờ công sức của nhân dân. Khi có kẻ thù, nhân dân ta đoàn kết, giúp chống quân xâm lược, hơn nữa, sự trưởng thành của anh hùng Thánh Gióng cũng cho thấy sự trưởng thành của Gióng đến từ nhân dân và được nhân dân nuôi dưỡng

Khi giặc kéo đến nơi, cậu bé ngày nào bỗng chốc vươn vai thành tráng sĩ. Sự thay đổi của Thánh Gióng làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa sự nghiệp cứu rỗi dân tộc và anh hùng. Người anh hùng cần phải có tầm vóc rất lớn. Chỉ có hình dạng cao lớn đó mới có thể đảm nhận trách nhiệm tại thời điểm đó.

Với sức mạnh phi thường, Gióng đã đánh bại lớp lớp kẻ thù khác. Khi roi sắt bị gãy, Thánh Gióng không chùn bước, nhổ những bụi tre dọc đường để tiếp tục chiến đấu với kẻ thù cho đến khi họ bị đánh bại hoàn toàn. Để tạo ra phép màu, không chỉ vũ khí hiện đại (roi sắt, áo giáp sắt) mà còn là vũ khí thô sơ nhất (bụi tre). Sau khi đánh bại quân xâm lược, Gióng đến chân núi Sóc và để lại ngọn giáo của mình một mình và bay trở lại thiên đàng. Người anh hùng, sau khi hoàn thành nhiệm vụ cứu đất nước, không màng danh vọng, đã trở lại thế giới cổ tích.

Như vậy, Thánh Gióng là một hình ảnh đẹp tượng trưng cho lòng yêu nước và sức mạnh nổi dậy của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Bài tham khảo 4:

Truyện Thánh Gióng đã ca ngợi truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Điều đó không chỉ thể hiện lòng yêu nước, sự đoàn kết của dân tộc ta.

Truyện kể về sự ra đời, cũng như công lao đánh đuổi giặc Ân cứu nước của Thánh Gióng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời giới thiệu: “Đời Vua Hùng thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn nổi tiếng là sống phúc đức nhưng vẫn chưa có một mụn con”. Từ đó, tác giả dân gian bắt đầu gợi mở về sự ra đời kì lạ của Gióng. Một hôm, bà lão đi ra đồng trông thấy một bàn chân to, liền ướm thử vào để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà lão mang thai, sau mười hai tháng thì sinh ra một câu bé. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười, đặt đâu thì nằm đấy. Có thể thấy rằng sự ra đời không giống với bất kỳ đứa trẻ bình thường nào, trái với quy luật của tự nhiên. Điều đó như một lời báo hiệu cuộc đời phi thường của cậu bé làng Gióng.

Bấy giờ có giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Cậu bé nghe tiếng của sứ giả thì liền cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, Góng yêu cầu sứ giả về nói với nhà vua chuẩn bị “một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một tấm áo giáp sắt” với lời hứa sẽ phá tan lũ giặc này. Câu nói đầu tiên là câu nói với lòng mong muốn xin đi đánh giặc cứu nước cứu dân. Câu nói mang tấm lòng yêu nước của một cậu bé mới ba tuổi nhưng đã có trách nhiệm với đất nước nhân dân.

Để rồi kể từ khi gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi: “Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ”. Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước. Có thể thấy rằng, sức mạnh của tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Gióng lớn lên trong vòng tay chăm sóc nuôi nấng của nhân dân.

Khi quân giặc đến gần bờ cõi, chàng Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Thánh Gióng đánh tan quân giặc, rồi trở về với cõi bất tử: “Thánh Gióng một mình một ngựa, lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt bỏ lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời”. Con người phi thường nên sự ra đi cũng trở nên phi thường. Thánh Gióng đã trở về với cõi bất tử. Đó chính là lòng tôn kính mà nhân dân ta dành cho một con người có công với đất nước.

Ở cuối truyện, tác giả dân gian còn kể về những dấu tích còn lưu lại. Nhà vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương, và lập đền thờ ở quê nhà, nay là làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hay hình ảnh những bụi tre ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun mới vàng óng như thế, những vết chân ngựa thành những ao hồ liên tiếp, ngựa thét ra lửa thiêu cháy một làng gọi là làng Cháy… Điều đó muốn thể hiện niềm tin bất diệt của nhân dân vào sức mạnh thần kì của dân tộc. Tác phẩm đã xây dựng nhiều chi tiết kì ảo, từ đó góp phần thể hiện ý nghĩa của câu chuyện.

Như vậy, Thánh Gióng chính là một trong những truyền thuyết hay, để lại nhiều bài học giá trị cho thế hệ sau.

Bình luận

Giải bài tập những môn khác