Phân tích, đánh giá từng phần của bài thơ "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch

Văn mẫu 11 kết nối tri thức đề bài: Phân tích, đánh giá từng phần của bài thơ "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Bài tham khảo 1:

Lý Bạch được người đời mệnh danh là “thi tiên”. Thơ ông thường thể hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Đến với bài thơ “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh”, người đọc sẽ cảm nhận được điều đó:

“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt,đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”

Hai câu thơ mở đầu, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của ánh trăng. Hai từ “minh ”, “quang”, “sương” đều có nghĩa là “sáng” đã cho thấy rằng ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo. Khi chiếu xuống mặt đất cứ ngỡ như đang có một làn sương mờ ảo phủ xuống. Cùng với đó là từ “sàng” (giường) nhằm xác định vị vị trí ngắm trăng - ánh trăng xuyên qua khe cửa, chiếu xuống đầu giường chứng tỏ trăng đêm rất sáng và trời cũng đã khuya rồi. Nhưng lúc này, nhà thơ vẫn còn thức để ngắm trăng. Điều đó còn cho thấy tâm trạng của Lí Bạch. Đó là sự thao thức, bâng khuâng trước vẻ đẹp của ánh trăng.

Không dừng lại ở đó, trăng còn gợi nhắc Lí Bạch nhớ về “cố hương” - quê cũ. Từ “vọng” có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu thứ nhất là “nhìn ra xa” cho thấy hành động ngắm trăng của nhà thơ. Còn cách hiểu thứ hai là “ngóng trông” cho thấy hành động nhìn về quê hương ở phía xa. Cùng với đó là hai hành động đối lập “cử đầu” - “đê đầu” (ngẩng đầu - cúi đầu) giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng. Khi bắt gặp ánh trăng, Lí Bạch cứ ngỡ đó là màn sương đêm. Nhưng ngẩng đầu nhìn mới nhận ra đó là trăng chứ không phải sương. Và ánh trăng này khiến ông nhớ đến quê hương. Hành động cuối cùng là cúi xuống giống như là đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng. Từ đó, người đọc cảm nhận được nỗi nhớ sâu đậm của tác giả dành cho quê hương của mình.

Lí Bạch đã thể hiện tình yêu quê hương cùng nỗi nhớ da diết của một người sống xa quê trong đêm trăng thanh tĩnh qua bài thơ. Đây quả là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của nhà thơ.

Bài tham khảo 2:

Lý Bạch là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh:

“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt,đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”

Bài thơ mở đầu với hình ảnh miêu tả ánh trăng. Các từ “minh ”, “quang”, “sương” gợi tả ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo, chiếu xuống mà nhìn là dưới mặt đất đất đang phủ một làn sương mờ ảo. Kết hợp với từ “sàng” (giường) xác định vị vị trí ngắm trăng - ánh trăng xuyên qua khe cửa, chiếu xuống đầu giường chứng tỏ trăng đêm rất sáng và trời cũng đã khuya rồi. Nhưng lúc này, nhà thơ vẫn còn thức để ngắm trăng - chứng tỏ tâm trạng thao thức, băn khoăn của nhà thơ. Ánh trăng chiếu xuống vạn vật trong đêm tối mờ ảo khiến cho nhà thơ không phân biệt được đâu là trăng đâu là màn sương đêm. Lý Bạch cảm thấy đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.

Trước vẻ đẹp của đêm trăng, nhà thơ nhớ về “cố hương” - quê cũ. Từ “vọng” có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu thứ nhất là “nhìn ra xa” cho thấy hành động ngắm trăng của nhà thơ. Còn cách hiểu thứ hai là “ngóng trông” cho thấy hành động nhìn về quê hương ở phía xa. Câu thơ tiếp theo Lý Bạch đã xây dựng hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” - “đê đầu” (ngẩng đầu - cúi đầu) giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng. Hành động “ngẩng đầu” gợi ra hướng nhìn về phía ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ. Hành động “cúi đầu” cho thấy nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình - tự đối mặt với nỗi nhớ quê hương da diết. Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua từ “tư” (nhớ) nỗi nhớ quê hương sâu đậm.

Bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh chính là tiếng lòng của nhà thơ. Lý Bạch muốn gửi gắm một tấm lòng yêu quê hương sâu sắc, da diết.

Bài tham khảo 3:

Quê hương - hai tiếng gọi thân thương trìu mến mà mỗi người đi xa đều đau đáu trong lòng. Đối với Lý Bạch - thi nhân suốt một đời xa quê thì tình yêu quê hương lại càng dâng trào mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh:

“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt, đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”

Mở đầu là hình ảnh ánh trăng. Trăng không chỉ giới hạn ở nơi đầu giường, mà ánh trăng bao trùm cả không gian toả khắp căn phòng nơi tác giả nghỉ trọ. Trăng như dòng suối chảy miên man khắp đêm sâu. Cảnh vật như say dưới trăng, giữa khoảnh khắc đêm sâu như vậy, ánh trăng là chủ thế trong cuộc sống tĩnh lặng. Hơi thở của tạo vật đất trời cũng nhè nhẹ sợ làm vỡ tan cái êm dịu của đêm trăng.

Với Lý Bạch - một hiệp khách thì ánh trăng sáng trong quán trọ không phải là chuyện lạ. Nhưng với thi nhân thì ánh trăng đêm nay rất khác lạ. Ánh trăng len lỏi vào tận đầu giường nơi tác giả nằm. Ánh trăng không phải là vô tri vô giác, nó như biết được nơi người hiệp khách dừng chân. Trăng chủ động tìm đến trò chuyện, tâm sự cùng tác giả. Trong khoảnh khắc đêm thâu tĩnh lặng, ánh trăng trong sáng và tinh khiết được tác giả chào đón nồng hậu.

Ánh trăng rọi ngỡ là sương mặt đất, chỉ một hình ảnh thôi mà gợi cả một thế giới cảm xúc. Đây là một hiện tượng rất bình thường, nhưng với tác giả thì hiện tượng này tạo cảm hứng mãnh liệt. Sức liên tưởng kỳ lạ làm hình tượng thơ sống dậy. Trăng hay là sương bao phủ mặt đất? Trăng là thực mà lại không thực? Bằng chất lãng mạn, thi nhân đã nâng ánh trăng lên đến mức diệu kỳ.

Vầng trăng trở nên như cõi thiên thai. Sương khói của ánh trăng làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực. Cả trăng và thi nhân đã giao hoà, giao cảm quyện làm một. Phải thật tĩnh lặng mới nghe được tiếng trò chuyện thầm thì của trăng và thi nhân. Một sự quan hệ qua lại như đền đáp ân huệ mà thiên nhiên ban tặng cho thi nhân cũng như lòng ngưỡng mộ của thi nhân với trăng. Rất tự nhiên, nhẹ nhàng thi nhân hướng về nàng tiên trong đêm sâu.

Tư thế nhìn trăng là một tư thế rất tự nhiên của thi nhân, trong giây phút ấy tác giả gửi trọn hồn mình cho trăng phút chốc tâm tư bỗng trĩu nặng rồi dồn nén vội quên đi cả vũ trụ đất trời đang mời gọi. Đê đầu nhớ về quê cũ yêu thương. Đêm nay trăng sáng nơi quê người, trong quán trọ trên bước đường lữ thứ, tâm hồn nhà thơ sau không khắc khoải bồn chồn. Ánh trăng đêm nay hay chính ánh trăng ngày nào trên núi Nga Mi hiện về. Bỗng chốc lòng tác giả nặng xuống với: quá khứ, hiện tại, tương lai đang trỗi dậy trong lòng.

Quê hương là những gì thiêng liêng nhất, không chỉ Lý Bạch đêm nay nhìn trăng nhớ quê cũ. Ai ai cũng vậy, trong hoàn cảnh ấy quá khứ sao lại chẳng dội về. Có chăng trong những phút nao lòng ấy nhà thơ muốn thốt lên nỗi lòng kẻ xa quê bao năm chưa trở lại. Dẫu sao tình cảm của tác giả với quê hương cũng không bao giờ phai nhạt. Hạ Tri Chương cũng từng thốt lên tâm sự khi hồi hương.

"Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao"

Lý Bạch đã viết bài thơ bằng tình cảm chân thực. Tĩnh dạ tứ xứng đáng là một khúc nhạc chan chứa tình yêu quê hương của “thi tiên Lý Bạch”.

Bài tham khảo 4: 

Quê hương là gì hở mẹ?

Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ?

Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Lời trẻ nhỏ hỏi mẹ trong sáng, ngây thơ nhưng cũng chính là nỗi lòng chung của những người xa quê mẹ lãng du nơi đất khách. Có ai đi xa mà không nhớ quê hương bởi quê hương với mỗi người đã trở thành máu, thành thơ, thành một phần của tâm hồn. Hơn nữa, đối với Lí Bạch, thi nhân suốt một đời chống kiếm phiêu du nhưng luôn nặng tình thương nhớ quê hương, tình cảm tha thiết, mãnh liệt dâng trào ấy còn được nâng cánh bằng cảm hứng lãng mạn, bay bổng diệu kì qua bài “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh”:

Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương.

Chính cái chất lãng mạn, trữ tình đằm thắm, cái chất thơ nồng ấm của Lí Bạch – con người hiệp khách đã làm cho khúc nhạc lòng vẻn vẹn hai mươi âm tiết chan chứa tâm tình con người xa quê sống mãi với thời gian.

Từ xưa đến nay, các thi nhân bao giờ cũng mượn cảnh để tỏ bày nỗi niềm tâm sự của

mình. Một bức tranh đẹp ập vào mắt ta trước tiên cũng là cảnh rồi mới tới những gì ẩn chứa bên trong. Và Lí Bạch “thi tiên” của thơ Đường Trung Quốc ngay từ những dòng đầu đã dẫn ta vào một thế giới tràn đầy ảo diệu:

 

“Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương”

Ấn tượng đầu tiên để lại trong ta là trăng. Trăng ở khắp nơi không chỉ giới hạn nơi đầu giường mà ánh trăng bao trùm cả không gian, tỏa khắp căn phòng nhỏ, hòa quyện vào ánh trăng của cả vũ trụ bao la. Trăng như một dòng suối chảy miên man trong đêm sâu, trăng như như một làn xoáy huyền vi và tinh tế chảy tràn qua, vuốt ve mọi vật bằng thứ ánh sáng mát dịu. Cảnh vật như say đắm dưới trăng, như lặng đi trong cái tĩnh lặng đến khôn cùng của đêm khuya. Câu thơ với những vần bằng êm ả như càng làm tăng nét êm đềm của dòng sông trăng, gieo vào lòng người cảm giác lâng lâng thanh tĩnh lạ thường. Giữa khoảnh khắc đêm thâu chỉ có ánh trăng là chủ thể, thiên nhiên hiện lên cái vẻ đẹp trong sáng nhất, cuộc sống trở về với những nhịp bình lặng, thâm trầm, trút bỏ cái náo động, xô bồ của ban ngày. Tất cả giờ đây chỉ còn là tâm hồn thảnh thơi giữa bát ngát đất trời ngập ánh trăng. Hơi thở của đất trời cũng thật nhè nhẹ như sợ làm vỡ cái giây phút huyền diệu của chị Hằng. Trăng đẹp và thơ mộng như một bài thơ, trăm tìm đến với con người làm bạn. Bác Hồ viết:

“Trăng vào cửa sổ đòi thơ

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau”

Bác Hồ đành từ chối một người bạn tri kỷ để lo cho việc quân, việc nước, lo “nỗi năm châu”. Còn với Lí Bạch, người lãng tử trong phút dừng chân nơi quán trọ để trọn lòng mình đến với thiên nhiên, say trong thiên nhiên, đập chung nhịp đập bồi hồi, xao xuyến của đất trời. Cuộc sống thật thanh bình, gió trăng vào chơi không cần gõ cửa, như bạn cố tri vốn thân thiết từ lâu rồi. Thật vậy, với một hồn thơ lãng mạn, bay bổng như Lí Bạch thì làm sao có thể vô tình, hững hờ trước một ánh trăng đẹp, nhất là vào khoảnh khắc thời gian của đêm thâu, khi tất cả đã lắng đọng lại, trong sáng và tinh khiết sau những bụi bặm của cuộc sống đời thường. Trăng rọi ngay bên đầu giường của thi nhân, lại là minh nguyệt, đủ thấy được nhà thơ yêu trăng, say trăng, thân thiết với trăng đến mức nào! Có lẽ, trong một phút giây xao xuyên, hồn thơ Lí Bạch đã chơi vơi, tan ra, hòa quyện cùng gió trăng để rồi đặt bút viết ra những dòng thơ thật trữ tình, thể hiện rõ dáng dấp của một “Thi tiên”.

“Nghi thị địa thượng sương”

Chỉ năm chữ thôi, năm chữ tưởng chừng như không là gì mà câu thơ bừng dậy một sức sống mới, thật mới mẻ mà cũng thật huyền ảo, như có sắc, có hồn. Một ánh trăng rọi mà tác giả ngỡ như là sương khói. Chỉ một hình ảnh thôi mà đủ gợi lên một thế giới cảm xúc mênh mang. Phải là một con người thiết tha với vẻ đẹp thiên nhiên, say mê và có tình cảm nồng nàn với những gì xảy ra chung quanh mình mới có được cái nhìn thi vị hóa đến thế. Sức liên tưởng phong phú như làm hình tượng thơ sống dậy, như làm ta tan ra trong thế giới huyền ảo của thi nhân. Trăng hay là sương la đà mặt đất? Ánh trăng hắt qua khung cửa sổ, soi xuống căn phòng hay là sương khói mông lung? Trăng- thực đó mà như không thực, như mờ ảo, khó nắm bắt đến kì lạ. Bằng chất lãng mạn vốn có, thi nhân đưa ta đến một thế giới mới, thế giới mơ mộng, huyền ảo của thi, ca, nhạc, họa. Trăng đêm nay có còn là trăng của cuộc sống đời thường nữa không hay qua cảm quan của riêng Lí Bạch đã trở thành một vầng trăng mờ ảo của cõi thiên thai? Cái sương khói của ánh trăng như làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực, trăng sáng mà sáng bàng bạc, huyền ảo. Trăng ở quanh thi nhân như có mấy tầng mấy lớp. Trăng làm cả không gian hẹp của thi nhân – căn phòng trọ và không gian bao la của vụ trụ - bầu trời đêm hòa chung làm một. Cả đất trời và hồn người như quyện chặt vào nhau. Quả thật, phải là một đêm khuya thanh tĩnh lắm mới nghe được tiếng đất trời và vầng trăng đang thì thầm trò chuyện, mới nghe được nhịp đập bồi hồi trong tim nghệ sĩ. Chính lúc không gian như lắng lại để chìm vào phút giây thanh tĩnh, yên ả nhất của thời gian, khi mảnh trăng của đất trời treo vằng vặc thì trong cõi riêng của cảm xúc, một mảnh hồn cô đơn đang khao khát mơ tìm tri âm, tri kỷ, một thi nhân đang ngắm trăng mà buồn cho cõi đời cát bũi trầm luân và con người đứng trước cảnh đẹp nơi quê khách cũng đang gửi chút tình về chốn quê xưa, đó là Lí Bạch:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương”

Một con người đang say sưa thưởng thức và gởi trọn hồn mình vào cảnh đẹp thiên nhiên mà phút chốc, vội quay về với chính mình chắc hẳn phải có một niềm tâm sự trĩu nặng dồn nén. Từ tư thế “cử đầu” ngắm trăng thì thi nhân trong giây lát quên đi cả một đất trời đang gọi để rồi “đê đầu” và từ đấy ý thơ bật ra như mạch cảm xúc dâng trào “tư cố hương”. Nỗi lòng của Lí Bạch trào lên mãnh liệt, tha thiết, day dứt hơn bao giờ hết. Đêm nay, nhìn trăng sáng nơi quê người, đứa con phiêu lãng chắc có lẽ đã thấy tâm hồn mình trăn trở khôn nguôi, khi hắt lên từ thẳm sâu nỗi nhớ của trái tim, ánh trăng năm nào trên núi Nga Mi thời trai trẻ chợt tái hiện về. Năm xưa, một chàng trai trẻ đầy sức sống ngắm trăng trên núi Nga Mi thì chỉ thoáng một chớp mắt, hình ảnh ấy đã thuộc về quá khứ, thuộc về dĩ vãng quá xa mờ. Người con xa quê thấy lòng mình chùng xuống, ngoảnh đi ngoảnh lại thoát đã mười mấy năm ròng, giờ đây, đứng trước đất trời trong cảnh trăng vời vợi, bao hình ảnh ngày xưa tái hiện về, dồn dập, nén chặt, chất chứa… như một đoạn phim quay chậm. Quá khứ, hiện tại, quê nhà, quê người, thành công, thất bại, hy vọng, thất vọng, thân thế, sự nghiệp, tất cả như đan xen, như hòa quyện vào nhau, trong tư thế của một con người cúi đầu mà tâm hồn quay quắt nhớ, “cử đầu” đối diện với hiện tại, với ánh trăng ngày hôm nay, nơi đất lạ, nhưng con người ấy lại ngoảnh mặt, phủ nhận hiện tại, muốn quên đi những gì đang diễn ra, con người ấy “đê đầu” để níu kéo, quay trở về với quá khứ đã đi qua, quá khứ một thời thân thuộc, gắn bó, yêu thương. Khi ngẩng đầu tư thế hướng ngoại, trông ra mảnh trăng của đất trời còn khi cúi đầu là hướng nội, mà quay về thế giới nội tâm đang trăn trở những nỗi niềm thầm kín bao nhiêu tâm trạng, bao nhiêu suy tư như làm cả bài thơ nghiêng hẳn về câu cuối, tự tình so với ba cầu đầu, tả cảnh. Tình ở đây là tấm lòng thương nhớ quê hương. Với người con xa quê, đã lâu rồi như Lí Bạch, tình cảm ấy càng da diết khôn nguôi. Hơn nữa, trong bốn bề không gian thanh tĩnh lại càng tô đậm, càng làm sâu sắc nỗi nhớ quê hương mãnh liệt, cuộn sóng tâm hồn. Có lẽ, trong suốt cuộc đời chống kiếm lãng du, làm một hiệp khách thi nhân, đây là lúc Lí Bạch để tâm hồn mình lắng tai, sống trọn vẹn với tình quê hương, sống trọn vẹn với những hoài niệm xinh đẹp của quá khứ hơn hết. Thế mới biết quê hương là những gì thiêng liêng nhất, một ngôi nhà, một góc phố, một cánh đồng, một dòng sông mang dáng dấp quê hương xưa cũng gợi cho ta bao cảm xúc, còn Lí Bạch, tình yêu ấy còn được nâng cánh bằng cảm hứng lãng mạn nên chỉ một ánh trăng cũng làm sống dậy hình ảnh cố hương trong tiềm thức. Nhà thơ Chế Lan Viên có câu:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”

(Tiếng hát con tàu)

Khi con người Lí Bạch bắt đầu bước đường đời phiêu lãng, đất quê hương thật sự đã thành máu, thành hồn. Tình yêu quê hương, hay đúng hơn, cố hương, càng sâu sắc, mãnh liệt đầy đủ các cung bậc trái tim. Khi ngẩng đầu ngắm trang, khi cúi đầu nhớ về quê cũ, hai tư thế tưởng chừng đối lập nhau (hai câu thơ đối rất chỉnh từng lời, từng chữ) nhưng nó lại bổ sung cho nhau, càng làm tình yêu và nỗi nhớ cố hương thêm nồng nàn, sâu thẳm, nhờ yêu quê hương mà quên cả vẻ đẹp thiên nhiên. Hình ảnh quê xưa và ánh trăng như hai mà một, bao hoài niệm cố hương gắn liền với kí ức về trăng.

Tình yêu quê hương với cả một bức tranh chan chứa ánh trăng làm nền bay cao mãi, xa mãi, ngân vang khúc nhạc lòng của chàng trai trẻ ngày nào trên núi Nga Mi, giờ đã là một Lí Bạch sau mấy mươi năm, trầm tư suy ngẫm về quá khứ. Câu thơ cuối khép lại nhưng tình, nhưng ý còn chưa dứt, bởi dù chỉ có hai mươi chữ, nhưng cuối cùng ấn tượng đậm nét trong ta mãi mãi vẫn là một con người cúi đầu nhớ về quê cũ.

Là một nhà thơ ngũ ngôn tứ tuyệt, bài thơ còn vấn vương lại mãi trong ta, thấm nhuần trong ta nỗi niềm tiếc nuối, ngậm ngùi như một bản nhạc kết thúc bằng âm trầm xao xuyến. Trước hết, đó là vì chất dung dị mà sâu sắc của ngôn từ, chất lãng mạn trữ tình mà chân thực của cảm xúc và bao trùm lên trên hết là vì tình yêu cố hương tha thiết, mãnh liệt trào dâng trong từng câu, từng chữ. Tĩnh dạ tứ, một phút trầm lắng suy tư trong đêm thanh tĩnh, gợi nơi ta một cảm giác xao xuyến, bồi hồi, và hơn nữa, là chút gì đồng cảm, đồng điệu. Xa quê hương, ai lại không nhớ thương, cũng như em, xa nơi chôn rau cắt rốn không thể nào quên một con đường, một góc phố rêu phong của thành Nam yêu dấu. Lí Bạch đã viết bài thơ bằng tình cảm rất chân thực nên tình yêu cố hương được thể hiện sống động mà khơi dậy bao cảm xúc. Ta bồi hồi trước chất lãng mạn của bài thơ, ta trân trọng, nâng niu những tình cảm thực sự từ đáy lòng của nhà thơ cũng chính là ta đã hiểu, đã cảm được cái hay, cái đẹp của nghệ thuật thơ ca, chính là ta đã hiểu và ta đã tìm thấy sự đồng điệu nơi thi nhân Lí Bạch. Tĩnh dạ tứ xứng đáng là một bản tình ca của tâm hồn, là khúc nhạc lòng chan chứa nặng nghĩa tình của Lí Bạch nói riêng và của bao người con xa bước nặng tình thương nhớ quê hương.

Quả thật Lí Bạch với tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt được nâng cánh bằng cảm hứng lãng mạn tuyệt vời. Quả Tĩnh dạ tứ đã hâm nóng những mạch cảm xúc trong ta. Ta yêu quý trân trọng, hòa cùng những dòng thơ lí Bạch cũng hcính là ta đã làm cho giá trị đích thực của thi ca chuyển tải thế giới nội tâm của con người sống mãi với thời gian. Làm sao có thể quên dáng hình một hiệp khách thi nhân cúi đầu hồi tưởng quê hương trong tiềm thức và làm sao ta có thể quên một Lí Bạch “Thi tiên”, nhà thơ của những cảm xúc thăng hoa trong tâm hồn, nhà thơ đã góp phần làm diện mạo nền thơ Đường thêm phong phú.

“Đây những tập Đương thi bất tuyệt

Thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ tinh hoa

Cùng với trăng sao vằng vặc

Triệu năm mà mới tựa hôm qua”

 

(Tình yêu của sách – Tế Hanh)


Nếu chưa hiểu - hãy xem: => Lời giải chi tiết ở đây

Nội dung quan tâm khác

Thêm kiến thức môn học

Từ khóa tìm kiếm: Soạn ngữ văn 11 Kết nối tri thức bài 2 Viết: Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ (Tìm hiểu cấu tứ và hình ảnh trong tác phẩm), soạn văn mẫu 11 sách KN bài 2 Viết: Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ (Tìm hiểu cấu tứ và hình ảnh trong tác phẩm), văn mẫu 11 Kết nối bài Phân tích, đánh giá từng phần của bài thơ "Tĩnh dạ tứ" của Lý Bạch

Bình luận

Giải bài tập những môn khác