Đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 11 KNTT: Đề tham khảo số 4

Trọn bộ đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 11 KNTT: Đề tham khảo số 4 bộ sách mới Kết nối tri thức gồm nhiều câu hỏi ôn tập hay, các dạng bài tập phong phú giúp các em củng cố ôn luyện lại kiến thức thật tốt chuẩn bị tốt cho kì thi sắp tới. Tài liệu có kèm theo đáp án và lời giải chi tiết. Hi vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích giúp các em đạt điểm cao. Thầy cô và các em kéo xuống để tham khảo ôn luyện

ĐỀ THI CUỐI KÌ 2 NGỮ VĂN 11 KẾT NỐI TRI THỨC ĐỀ 4

A. PHẦN ĐỌC HIỂU (5.0 điểm) 

Cho ngữ liệu sau đọc và trả lời câu hỏi:

Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm

(Lê Bá Dương, Lời người bên sông)

Câu 1 (1.0 điểm): Xác định phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên. 

Câu 2 (1.0 điểm): Hãy chỉ ra và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ trong hai câu thơ “Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm” 

Câu 3 (1.0 điểm): Tác giả thể hiện những tâm tư, tình cảm gì khi đứng trước dòng sông Thạch Hãn? 

Câu 4 (2.0 điểm): Từ bài thơ, anh/chị hãy viết đoạn văn (7-10 dòng) trình bày suy nghĩ của mình về trách nhiệm của học sinh hiện nay với đất nước. 

B.   PHẦN VIẾT (5.0 điểm)

Câu 1 (5 điểm): Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình qua bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.

Hướng dẫn trả lời

  • A. PHẦN ĐỌC HIỂU

Câu 1:

Phương thức biểu đạt: biểu cảm

Câu 2:

- Biện pháp tu từ nói giảm nói tránh "có tuổi hai mươi thành sóng nước"

- Tác dụng: giảm bớt sự đau thương khi nói về sự hy sinh thảm thương của những người lính trẻ khi bị giặc phục kích và ca ngợi công lao to lớn của những người lính cho nền độc lập của dân tộc.

Câu 3:

Sự đau đớn và hoài niệm về sự hy sinh thảm khốc của những người lính trẻ ở Quảng Trị mãi mãi đi vào lịch sử đau thương của dân tộc

Câu 4:

Học sinh là nguồn động lực phát triển to lớn của xã hội, là thế hệ tương lai, những người sẽ kế thừa thành tựu từ thế hệ đi trước để xây dựng và phát triển đất nước ngày một phát triển hơn. Từ trước đến nay, học sinh vẫn luôn là đối tượng được Đảng và nhà nước ta quan tâm, chú trọng, tạo điều học tập, phát triển. Là một học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta cần ý thức được trách nhiệm của mình với đất nước. Chúng ta cần cố gắng học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cô, rèn luyện cả về trí tuệ lẫn đạo đức để hoàn thiện bản thân mình một cách tốt nhất. Chúng ta cần nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc, hiểu rõ tầm quan trọng của đất nước đối với bản thân mình. Cần phải luôn biết yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh… có như vậy, chúng ta mới xứng đáng là một công dân gương mẫu của nước nhà.

  • B. PHẦN VIẾT

Câu 1:

Thơ, văn bao giờ cũng là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ, người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn, nhà thơ lớn. Nguyễn Công Trứ cũng thuộc những tác giả như vậy và Bài ca ngất ngưởng giúp ta có thể hình dung rất rõ chân dung một Nguyễn Công Trứ tự họa.

Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất ngưởng”. Nhưng đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà là cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.

Ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ông Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính mình. Không phải ngẫu nhiên mà khi đọc thơ của Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc tới Chí nam nhi, Chí làm trai, Chí tang bồng, Phận sự làm trai, Nợ nam nhi, Nợ tang bồng... Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà Nho chân chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng một giọng điệu ngất ngưởng, ngang tàng. Cứ xem cách xưng hô ở câu thứ hai, Nguyễn Công Trứ tự gọi mình là Ông Hi Văn, giới thiệu chính mình là người có tài lớn và coi việc ra làm quan như đã vào lồng, ta cũng đủ thấy rất rõ thái độ người viết vừa trang nghiêm, lại vừa như hài hước.

Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm quan đương chức: Khỉ Thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông. Hoặc Lúc bình Tây, cờ đại tướng; có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ ấy càng thêm đậm nét, tính cách ngất ngưởng càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã tháo cũi, sổ lồng, không chịu một sự ràng buộc nào nên ông càng trở nên ngất ngưởng. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một cách sống có vẻ khác người, ngược đời: người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung.

Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời:

Được mất dương dương người thái thượng

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình. Ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong; hãy quẳng gánh lo đi mà vui sống.

Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều điều lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, ngông nghênh của Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự thách thức cuộc đời. Dường như ông muốn chống lại sự vùi dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ.

Ông tâm niệm thế và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non sông ghi nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang thơ của chính ông.

Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!" Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa tự giễu mình một cách thấm thía; vừa như tự bạch của ông, lại vừa như một nhận xét bình giá của người đời.  Câu thơ và cả bài thơ cũng ngất ngưởng như ông vậy.

Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành một cách sống, một mẫu hình in đậm trong thơ ca của nhiều thi sĩ khác. Và cho đến bây giờ, ta vẫn có thể bắt gặp hình bóng và cốt cách ấy của ông trong một Tú Xương, một Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu và một phần nào đấy ở nhà văn Nguyễn Tuân.

Từ khóa tìm kiếm:

Đề thi Ngữ văn 11 kết nối tri thức, trọn bộ đề thi Ngữ văn 11 kết nối, đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 11 KNTT: Đề

Bình luận

Giải bài tập những môn khác