Câu hỏi tự luận mức độ vận dụng Lịch sử 8 cánh diều bài 4: Xung đột Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn.

  1. VẬN DỤNG (4 câu)

Câu 1: Em hãy đưa ra một số lí do thuyết phục để phản đối các cuộc xung đột Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn.

Câu 2: Em hiểu gì về các cụm từ “vua Lê – chúa Trịnh”, “chúa Nguyễn”, “Đàng Trong – Đàng Ngoài”?

Câu 3: Trình bày một vài nét về Mạc Đăng Dung.

Câu 4: Trình bày một vài nét về Trịnh Kiểm.


Câu 1: 

Một số lí do để phản đối các cuộc xung đột Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn:

-  Đất nước bị chia cắt.

- Sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp bị đình trệ .

- Trao đổi buôn bán giữa các vùng gặp nhiều khó khăn.

- Đời sống nhân dân khốn cùng vì đói, bị bắt đi lính, đi phu, nhiều gia đình bị li tán.

- Giết hại nhiều người dân vô tội.

Câu 2: 

- Cụm từ “vua Lê – chúa Trịnh”, “chúa Nguyễn”: thời kì Trịnh – Nguyễn phân tranh. là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ “vua Lê – chúa Trịnh”ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào năm 1672 khi chúa Nguyễn sụp đổ.

- “Đàng Trong – Đàng Ngoài”:

+ Hai bên Trịnh – Nguyễn lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm ranh giới chia cắt đất nước thành Đàng Trong - Đàng Ngoài.

+ Đàng Ngoài: từ sông Gianh trở ra Bắc.

   Đàng Trong: từ sông Gianh trở vào Nam.

Câu 3:

Một vài nét về Mạc Đăng Dung:

- Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai (Kiến Thuy, Hải Phòng), là cháu bảy đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (thời Trần).

- Là người có sức khoẻ và giỏi võ, thi đỗ lực sĩ và được sung vào đội Túc vệ, ông dần được thăng các chức quan trong triều Lê và được trọng dụng. Đến năm 1527, ông được phong là An Hưng Vương.

- Là người trí đức, tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong trị nước thiên hạ yên vui, công đức rất lớn lao, lập ra nhà Mạc. Ông lên làm vua từ ngày 15 tháng 6 âm lịch năm 1527 đến hết năm 1529 với niên hiệu Minh Đức. Sau đó, học theo nhà Trần, nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh (tức Mạc Thái Tông) để lui về làm Thái thượng hoàng.

- Do thời gian làm vua rất ngắn, không để lại nhiều dấu ấn gì ngoài một số việc như: cho đúc tiền Thông Bảo, truy tôn Mạc Đĩnh Chi là Kiến Thủy Khâm Ninh Văn Hoàng Đế, xây cung điện ở Cổ Trai, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, tổ chức thi tuyển chọn người có tài (thi Hội năm 1529), cũng như sửa định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt các vệphủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, nhưng vẫn phỏng theo quan chế triều trước với bổ sung không đáng kể nên người ta biết đến ông phần nhiều như là một người tiếm ngôi, mặc dù trong giai đoạn từ đời Lê Uy Mục đến đời Lê Cung Hoàng thì nhà Hậu Lê đã cực kỳ suy tàn, khởi nghĩa và nổi loạn nổi lên ở nhiều nơi, triều chính thối nát dẫn đến việc các ông vua này phải dựa vào thế lực ngày càng tăng của Mạc Đăng Dung nhằm duy trì quyền lực đã gần như không còn của mình và cuối cùng là việc phải nhường ngôi cho ông.

- Năm 1540, Mạc Thái Tông mất, Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông.

- Năm 1541, thượng hoàng Mạc Đăng Dung qua đời, thọ 59 tuổi. Trước khi mất ông có để lại di chúc không làm đàn chay cúng Phật và khuyên Mạc Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.

Câu 4:

Một vài nét về Trịnh Kiểm:

- Trịnh Kiểm là người mở đầu sự nghiệp nắm quyền của họ Trịnh và gián tiếp tạo nên tình trạng vua Lê – chúa Trịnh tại Bắc Hà (miền Bắc Việt Nam ngày nay) cũng như là đầu mối của chiến tranh Trịnh - Nguyễn sau này.

- Khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê, Nguyễn Kim khởi nghĩa tái lập nhà Lê. Thế Nam Bắc triều hình thành. Trịnh Kiểm đầu quân theo Nguyễn Kim. Là người có tài, ông được Nguyễn Kim giao cho nhiều trọng trách và gả con gái là Ngọc Bảo cho. Năm 1539, ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực Quận công do có công cầm binh mã sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông. Sau khi Nguyễn Kim bị ám sát bằng thuốc độc năm 1545, toàn bộ binh quyền của nhà Lê rơi vào tay Trịnh Kiểm, với tước hiệu Thái sư Lạng quốc công.

- Năm 1548, vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm cho lập con lớn của Trang Tông là Huyên lên nối ngôi lấy hiệu là Trung Tông. Do uy quyền của Trịnh Kiểm quá lớn, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng phải xin vào Nam trấn giữ đất Thuận Hoá.

- Năm 1556, vua Trung Tông mất không có con nối. Trịnh Kiểm muốn thay nhà Lê làm vua, nhưng còn ngại những lời dị nghị nên sai người đi hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình mách khéo rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Trịnh Kiểm hiểu ý bèn tìm người trong dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Bang (cháu 5 đời của Lê Trừ – anh Lê Lợi) lập làm vua, tức Lê Anh Tông.

- Năm 1570 (tháng 2 m lịch) ông mất, trao quyền cho con là Trịnh Cối nhưng sau đó hai con ông (Trịnh Cối và Trịnh Tùng) tranh chấp nhau. Cuối cùng Trịnh Tùng giành được ưu thế, giết anh, lên ngôi chúa.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác