Câu hỏi tự luận mức độ thông hiểu Ngữ văn 8 cánh diều bài 5: Nước Đại Việt ta
2. THÔNG HIỂU (5 câu)
Câu 1: Hãy phân tích đoạn văn lấy dẫn chứng từ thực tiễn lịch sử để làm sáng tỏ sức mạnh của nguyên lí nhân nghĩa và sức mạnh của chân lí độc lập dân tộc (phần (2)).
Câu 2: Nêu cách hiểu của em về hai câu mở đầu đoạn trích “Nước Đại Việt ta”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Câu 3: Trên cơ sở so sánh với bài thơ “Sông núi nước Nam”, hãy chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức độc lập dân tộc trong bài “Bình Ngô đại cáo”.
Câu 4: Phân tích trình tự lập luận trong đoạn trích “Nước Đại Việt ta”.
Câu 5: Chỉ ra và phân tích tác dụng của phép so sánh, phép đối, cách sử dụng câu văn biền ngẫu trong đoạn trích.
Câu 1:
– Ở bài thơ Sông núi nước Nam, tác giả cũng khẳng định sức mạnh của chân lí chính nghĩa, của độc lập dân tộc: Kẻ xâm lược là giặc bạo ngược (nghịch lỗ) làm trái lẽ phải, phạm vào sách trời (thiên thư), cũng có nghĩa là đi ngược lại chân lí khách quan, nhất định sẽ chuốc lấy thất bại hoàn toàn (thủ bại hư).
– Ở Bình Ngô đại cáo, nêu nguyên lí nhân nghĩa, nếu chân lí khách quan, Nguyễn Trãi đưa ra những minh chứng đầy tính thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lí, nói chung lại là sức mạnh của chính nghĩa: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã, kẻ bị giết, người bị bắt. Tác giả lấy "chứng cớ còn ghi" để chứng minh cho sức mạnh của chính nghĩa, đồng thời thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Câu 2:
- Hai câu văn cho thấy mục đích của việc làm nhân nghĩa là để “yên dân”, tức đem lại cuộc sống thái bình cho người dân, mục đích của đội quân Lam Sơn là tiêu trừ kẻ có tội. Nguyễn Trãi đã biết chắt lọc lấy cái hạt nhân cơ bản, tích cực nhất của tư tưởng nhân nghĩa khi xác định: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
- Đặt trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo thì dân mà tác giả nói tới là người dân nước Đại Việt đang bị xâm lược, còn kẻ bạo tàn là giặc Minh cướp nước. Để “yên dân” thì phải “trừ bạo”, tức là phải đánh đuổi giặc Minh xâm lược, giành lại đất nước. Như vậy, nhân nghĩa là phải chống xâm lược, chống xâm lược chính là nhân nghĩa. Ở Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa có sự kết hợp với tư tưởng yêu nước, thương dân, chống xâm lược. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận định: “Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. (Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc, báo Nhân dân, ngày 19/09/1962).
Câu 3:
- Bài thơ Sông núi nước Nam được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Tiếp đó, bài Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. So với Sông núi nước Nam, ý thức dân tộc trong Bình Ngô đại cáo (qua đoạn trích Nước Đại Việt ta) có sự tiếp nối và phát triển toàn diện hơn, sâu sắc hơn nhiều trong thời kì lịch sử mới của dân tộc.
- Toàn diện vì nếu ý thức dân tộc trong Sông núi nước Nam được xác định trên hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền thì đến Bình Ngô đại cáo lại có những yếu tố cơ bản nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Ở Sông núi nước Nam, tác giả đã khẳng định Đại Việt hoàn toàn độc lập với Trung Quốc về lãnh thổ: "Vằng vặc sách trời chia xứ sở" (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư) và về chủ quyền: "Sông núi nước Nam, Nam đế chủ” (Nam quốc sơn hà Nam đế cư). Trong quan niệm của người Trung Quốc xưa, vương là vua chư hầu, làm chủ một địa phương, còn đế mới là vua thiên tử, chúa tể cả thiên hạ. Vương có nhiều còn đế thì chỉ một, đế là duy nhất. Đế là ngôi vị tối thượng, vương là bậc dưới của đế. Khẳng định "Nam đế" làm chủ Nam quốc là để đối lập với "Bắc đế", để phủ nhận tư tưởng "trời không có hai mặt trời, đất không có hai hoàng đế" của phong kiến phương Bắc. Đến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục khẳng định Đại Việt độc lập về lãnh thổ: ("Núi sông bờ cõi đã chia"), độc lập về chủ quyền ("Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương"). Tuy nhiên, ý thức dân tộc ở Bình Ngô đại cáo toàn diện hơn khi tác giả bổ sung thêm những yếu tố quan trọng, rất cơ bản: văn hiến riêng ("Vốn xưng nền văn hiến đã lâu"); phong tục tập quán riêng ("Phong tục Bắc Nam cũng khác"); lịch sử riêng ("Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập").
- Ý thức dân tộc ở Bình Ngô đại cáo sâu sắc bởi vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến và truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà khi khẳng định độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã đưa yếu tố văn hiến lên đầu tiên. Cũng không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại đặt sóng đôi, ngang hàng lịch sử các triều đại Việt Nam với các triều đại Trung Quốc: "Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập – Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương". Tác giả khẳng định "Nam đế" làm chủ Nam quốc không phải bằng "thiên thư" (sách trời) mà bằng thực tế lịch sử. Đó là bước tiến trong ý thức của thời đại, đồng thời cũng thể hiện tầm cao tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Câu 4:
- Bình Ngô đại cáo là mẫu mực về kết cấu chặt chẽ, lập luận đanh thép, sắc bén. Phần mở đầu bài cáo (đoạn trích Nước Đại Việt ta), Nguyễn Trãi nêu lên tư tưởng nhân nghĩa: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo". Khi nêu tư tưởng nhân nghĩa, tác giả làm nổi bật hai nội dung cốt lõi: "yên dân" và "trừ bạo". Tiếp đến bài cáo khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập từ lâu của nước Đại Việt: "Như nước Đại Việt ta từ trước – Vốn xưng nền văn hiến đã lâu...". Chân lí này được khẳng định theo trình tự: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, truyền thống anh hùng hào kiệt, chủ quyền dân tộc. Cách nêu tiền đề bằng những chân lí như vậy đã tạo cơ sở lí luận chắc chắn, chỗ dựa cho việc triển khai lập luận ở những phần sau.
- Sau khi khẳng định chân lí hiển nhiên – nước Đại Việt vốn là một nước độc lập từ lâu, tác giả đã kể ra một loạt chiến công hiển hách trong chiến đấu bảo vệ độc lập của dân tộc trong trường kì lịch sử, khiến cho những kẻ xâm lược đều lần lượt chuốc lấy bại vong thảm hại. Từ Lưu Cung nhà Nam Hán, Triệu Tiết nhà Tống, Toa Đô và Ô Mã Nhi nhà Nguyên,... những tên danh tướng của các triều đại phong kiến phương Bắc ấy khi xâm phạm bờ cõi Đại Việt thì đều bị hoặc “mất vía”, “tiêu vong”, hoặc bị “giết tươi”, “bắt sống”,... Đó là những chứng cứ hùng hồn, sử sách còn ghi, càng khẳng định mạnh mẽ cái chân lí lớn về nền độc lập của nước Đại Việt.
Câu 5:
- Phép so sánh, phép đối: Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây dựng nền độc lập / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.
=> Tác giả đã so sánh ta với Trung Quốc, đặt ta ngang hàng với Trung Quốc về hệ thống chính trị, về quản lí đất nước để chứng minh nước ta không thua kém gì so với Trung Quốc. => Góp phần chứng minh độc lập, chủ quyền của Đại Việt.
- Phép đối: Lưu Cung tham công nên thất bại / Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô / Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
=> Tác dụng: tạo âm hưởng cho lời văn, làm cho chứng cơ thêm phần giá trị.
- Văn biền ngẫu trong đoạn trích được thể hiện ở chỗ: Mỗi hai dòng tạo thành một cặp sóng đôi. Phần lớn có sự đối nhau về âm thanh (thanh bằng – thanh trắc). Các cặp có sự tương đồng về số từ và nhịp.
=> Tác dụng: tạo nên nhịp điệu và ý nghĩa của bài văn; giúp người đọc dễ nhớ, dễ thuộc, để lại ấn tượng.
Bình luận