Đề 2: Thuyết minh cây ... ở quê em (cây xoài, cây chuối, cây tre...)
Thuyết minh cây ... ở quê em (cây xoài, cây chuối, cây tre...). Sau đây, tech12h gửi đến bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
[toc:ul]
Bài mẫu 1: Thuyết minh một loại cây ở quê em - cây chuối.
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu cây trồng ở quê em, cụ thể ở đây là cây chuối
2. Thân bài:
- Nguồn gốc của cây chuối: có nguồn gốc từ Đông Nam Á, sinh trưởng ở nhiều nơi
- Phân loại chuối: có nhiều loại, phong phú, đa dạng như chuối tiêu, chuối ngự, chuối cau, chuối hột, chuối ba hương
- Đặc điểm của chuối
- Sinh trưởng tốt ở những nơi ẩm ướt.
- Thân ngầm, có thân chính dưới mặt đất và thân giả do các bẹ chuối xếp lại
- Lá chuối lúc mới ra màu xanh non, cuộn tròn như chiếc hoa loa kèn, lớn lên xanh và rộng...sau già úa sang màu vàng và khô.
- Hoa chuối có màu đỏ tươi, buồng chuối bung nở từ hoa chuối
- Quả chuối: mọc thành nải chuối. cong cong như một vầng trăng lưỡi liềm đầu tháng. Khi mới ra màu xanh, lớn lên màu xanh thẫm, khi chín màu vàng.
- Cách trồng, chăm sóc cây chuối
- Công dụng, ý nghĩa của cây chuối
- Qủa chuối có giá trị dinh dưỡng cao, được dùng trong ẩm thực và nhiều người ưa chuộng. Chuối xanh để nấu ốc, nấu ếch, ăn kèm. Chuối chín ăn trực tiếp, làm kẹo, mứt, bánh...
- Hoa chuối thái làm nộm, lá chuối gói bánh, thân chuối làm thức ăn cho chăn nuôi...
- Qủa chuối có nhiều chất dinh dưỡng, dùng để cúng bàn thờ gia tiên
3. Kết bài:
- Tình cảm của em dành cho cây ở quê mình
Bài làm
Trên khắp mọi miền của Tổ quốc thân yêu, nơi đâu cũng có những loài cây đặc trưng cho xứ sở của mình. Hà Nội thoang thoảng hương hoa sữa, miền Tây nức tiếng cây trái miệt vườn. Nông thôn bình dị quê tôi lại không thể vắng bóng hình ảnh cây chuối.
Nhắc đến nông thôn Việt Nam không thể không nhắc đến cây chuối. Trên khắp mọi miền quê, nơi đâu ta cũng thấy màu xanh những tàu lá chuối mong manh nhưng căng tràn sức sống. Cây chuối là một loại cây ăn trái đã được thuần hóa từ bao đời nay, nó có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á, phổ biến ở các khu rừng nhiệt đới. Cho đến nay đã có khoảng 300 giống chuối được trồng và sử dụng trên khắp thế giới được trồng ít nhất trên 107 quốc gia. Chuối ở Việt Nam lại có nguồn gốc từ các giống chuối dại và có số lượng lớn. Nổi tiếng là chuối tiêu, chuối ngự... Sau đó, người Pháp mang vào nước ta vài giống chuối mới, quả to và năng suất cao hơn.
Họ hàng nhà chuối rất đông đúc, phong phú bao gồm chuối lấy quả, chuối chỉ để lấy lá. Ở nước ta các loại chuối phổ biến là chuối tiêu, chuối sứ, chuối tây, chuối bom...và một số giống nhập ngoại khác. Mỗi giống lại có đặc điểm hình dáng, hương vị khác nhau.
Về cơ bản, đặc điểm sinh thái của chuối giống nhau. Chuối là loại cây thân ngầm có sinh trưởng tốt ở môi trường ẩm ướt. Chúng có chiều cao trung bình khoảng 3 – 5 m. Tuy nhiên lại có giống chuối sáp cao tới 10 m. Phần thân chính ẩn mình dưới mặt đất gọi là củ chuối, phần thân trên là thân giả do các bẹ chuối ghép lại. Thân chuối hình tròn thẳng đứng và nhẵn thín như những chiếc cột nhà bóng loáng. Lá khi mới mọc ra cuộn tròn như chiếc hoa loa kèn xanh non, khi lớn lên thì xanh mướt và rộng như một tấm phản. Mặt trên của lá màu xanh thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt và có phấn trắng. Mỗi chiếc là chuối có 1 đường gân lá nằm ở giữa, 2 bên có hai dải mềm mại rủ xuống. Khi già lá rũ xuống bám chặt lấy thân. Ban đầu vàng tươi rồi khô dần dần thành màu nâu nhạt, chúng nhường chỗ cho những lá non đang chuẩn bị chồi ra ngoài.
Nõn chuối giống như một bức thư thuở xưa được phong còn kín. Bắp chuối hay còn gọi hoa chuối màu đỏ tươi, trông như một búp sen khổng lồ treo. Chuối trưởng thành sẽ ra hoa, trổ buồng. Buồng chuối được bung ra từ hoa, lớn dần thành những nải chuối to xếp lại, quây quần bên nhau. Quả chuối ra thành nải treo thành từng tầng. Mỗi tầng (gọi là nải) khoảng hai mươi quả. Các nải kết dính quanh một trục gọi là một buồng. Quả chuối lớn rất nhanh, càng lớn chúng càng cong hình lưỡi liềm, khi xanh có có màu xanh, khi chín có màu vàng bắt mắt.
Chuối rất dễ sống và nhanh lớn, nhưng vòng đời lại rất ngắn. Nên trồng chuối ở những nơi có nhiều ánh sáng để chúng phát triển. Vào mùa gió bão, nếu chuối có buồng cần phải chống để cây khỏi đổ. Khi thu hoạch thì phải nhẹ nhàng tránh rơi gẫy quả.
Cây chuối gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân quê tôi và người dân Việt Nam. vốn gần gũi trong đời sống của người nông dân Việt Nam. Chỉ một loài cây bình dị nhưng ẩn chứa rất nhiều công dụng. Cùng với các loại hoa quả, lương thực, chuối cũng là loại quả được xuất nhập khẩu nhiều ở các quốc gia. Quả chuối có giá trị dinh dưỡng cao. Chuối chín có rất nhiều vitamin tốt cho sức khỏe, người giả và người trẻ đều yêu thích. Xưa kia chuối là loại quả quí để tiến vua, ngày nay chuối được coi là món ăn dân giã, quen thuộc. Người ta còn làm thành mứt chuối, chuối sấy rất ngon. Chuối xanh là một món ăn kèm không thể thiếu trong ẩm thực với thịt dê, gỏi, cá kho hay nấu ốc, nấu ếch. Thân chuối còn dùng làm thức ăn chăn nuôi. Lá chuối dùng gói xôi, gói bánh, gói giò tạo mùi thơm dịu nhẹ. Lá chuối khô để đốt. Người ta dùng cả dây chuối khô từ cuống lá chuối để buộc, rất dai và bền. Củ chuối thái nhỏ làm nộm, nấu lươn rất ngon. Chuối còn được dùng trong Đông y chữa bệnh.
Trong đời sống tinh thần dân tộc, cây chuối đi vào thơ ca, hội họa tạo nên nét đẹp dịu dàng, bình dị vùng quê Việt Nam mộc mạc, thanh bình từ bao đời nay. Hình ảnh buồng chuối trĩu nặng giống như biểu tượng của người mẹ thiên nhiên bao dung, cần mẫn và yêu thương đàn con. Những ngày rằm, ngày lễ trên mâm bàn thờ tổ tiên luôn có những quả chuối thơm ngon nhằm cầu mong phúc lành, sự sum vầy, trù phú và thịnh vượng trong cuộc sống.
Từ bao đời nay, chuối đã gắn bó và dâng hiến cho cuộc sống con người Việt Nam, cả về vật chất và tinh thần. Cây chuối cũng chính là loài cây biểu tượng cho quê hương thân yêu mà mỗi lần đi xa tôi luôn ghi nhớ.
Bài mẫu 2: Thuyết minh một loại cây ở quê em - cây tre
Dàn ý
1. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu đối tượng thuyết minh là cây tre Việt Nam
2. Thân bài: Thuyết minh về cây tre
- Nguồn gốc:
- Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
- Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi…
- Công dụng của cây tre:
- Thời xa xưa làm chông đánh giặc, làm vật dụng nhà cửa, đồ dùng, làm củi đốt....
- Thời nay chủ yếu làm đồ gia dụng và thủ công mĩ nghệ.....
- Đặc điểm cây tre:
- Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng.
- Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh.
- Mỗi cây có khoảng 30 đốt,…
- Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.
- Ý nghĩa của cây tre:
- Cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật.
- Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt.
3. Kết bài:
- Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Trong đời sống hiện đại ngày nay, chúng ta vẫn không thể dời xa tre.
Bài làm
Cây tre gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược.
Cây tre đã đi vào văn hoá Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ, bị chặt phá, bị thoái hoá… bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Về tính năng, không thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà cửa (vì kèo, lanh tô, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất tôm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương, con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…
Tre từng được sử dụng phổ biến để làm đồ gia dụng: bàn ghế, giường chõng, các loại vật dụng sinh hoạt từ cái đòn gánh và đôi quang (thứ vật liệu đa dụng để gánh mọi thứ ra đồng và gánh lúa từ đồng về nhà, chưa kể còn được dùng như một thứ “tủ lạnh” thông thoáng để bảo quản thức ăn và chống chó, mèo, chuột hữu hiệu) đến cái khung cửi, cái xa quay sợi, cái rổ, cái rá, cái dần, cái sàng gạo, cái rế đựng nồi, cái gáo múc nước, cái bừa, cái cào, cái ách khoác lên cổ con trâu cày đến con dao cật nứa cắt rốn lúc chào đời, cái quạt nan, đôi đũa, cái tăm… nhiều thứ vật dụng làm bằng tre còn được dùng đến ngày nay.
Đấy là còn chưa nói tới các loại vật dụng của nhà nông, cũng như nhiều loại vũ khí thời xưa của cha ông ta đều có phần cán, phần tay cầm làm bằng một loại cây nào đó thuộc họ tre. Cây gậy tầm vông thời đánh Pháp xâm lược là một chứng tích đã đi vào lịch sử. Cây nêu dựng lên trước cửa nhà vào dịp năm mới thời xưa để trừ ma quỷ, cái ống đựng bút và quản bút lông của các nhà nho mà những năm gần đây về nơi thôn dã ta còn thấy, đến những cánh diều mà hôm nay con trẻ còn chơi… tất cả đều làm từ tre. Vật dụng ngày càng có vẻ thuận tiện hơn, có vẻ đẹp đẽ hơn đã đẩy chúng ta xa rời thứ cây nhiều lợi ích như thế. Thậm chí có một thời ấu trĩ, người ta đã chặt đi những bụi tre gai quanh làng với lý do là chúng làm đất bạc màu.Những rặng tre rợp bóng ở đường làng, nghiêng xuống nơi bờ ao không còn mấy nữa. Nhiều người quên mất rằng bao đời tổ tiên người Việt khai phá đồng bằng Bắc Bộ được như ngày hôm nay là do đắp đê chống lụt, trị thuỷ. Những triền đê được giữ vững trước nước lụt, bão tố, ngoài phần công sức của người Việt xưa bao đời bồi đắp, thì còn có phần công sức của những bụi tre có tác dụng giữ đất, chống xói lở.
Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre VN: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai vầu mấy chục loại khác nhau,nhưng cùng một mần xanh mọc thẳng…”
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”
Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc,… và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao đến 10 -18m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vòng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.
Cùng với cây đa, bến nước, sân đình - một hinh ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẳn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc sống.
Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phài ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng - hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi tre đằng ngà đánh đuổi giặc Àn xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre (theo các nhà Thực vật học, thì cây tre phát triển điều kiện lý tưởng, có thể cao thêm từ 15 -20cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn côngtrong các cuộc chiến. Chính những cọc tre trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán. Chính ngọn tầm vông góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập_ Tự do cho Tổ Quốc. “ Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…”
Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là ngưồn cảm hứng vô tận trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích ( Nàng Ưt ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có không ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre : “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre còn góp mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hóa thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm văn hóa có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách mước ngoài ưa thích, như những mặt hàng dùng để trang trí ở những nơi sang trọng : đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre.
Có thể thấy rằng bản lĩnh, bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẽ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này tượng trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Tre có rễ ngấm sâu xuống lòng đất, sống lâu và sống ở mọi vùng đất. Chính vì thế tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất bám làng : “Rễ sinh không ngại đất nghèo, Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước - tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên ường, bất khuất của người Việt Nam.
Bài mẫu 3: Thuyết minh một loại cây ở quê em - cây xoài
Dàn ý
1. Mở bài: Dẫn dắt để giới thiệu cây xoài ở quê hương em
2. Thân bài: Thuyết minh cây xoài
- Nguồn gốc: Phát hiện chỉ ra xoài có nguồn gốc ở Nam Á và Đông Nam Á
- Đặc điểm cây xoài:
- Cây thân gỗ lớn, khỏe và chắc, một cây trưởng thành có thể cao từ mười đến hai mươi mét
- Rễ cây xoài là rễ cọc có thể dễ dàng ăn sâu xuống dưới đất
- Tán của xoài rất rộng bởi cành lá xum xuê,....
- Khi còn non, lá xoài có màu tím pha đỏ; khi lá đã trưởng thành thì có màu xanh nhạt;
- Phân loại xoài: chia ra thành nhiều loại như xoài Cát, xoài Tượng, xoài Thái,…
- Công dụng của cây xoài:
- Tán rộng nên được trồng để lấy bóng mát.
- Xoài là lấy trái, ăn rất ngọn và bổ.
- Xoài là loại trái cây được xuất khẩu, mang lại giá trị cao....
- Thân to và chắc, gỗ xoài cũng được dùng làm bàn ghế, tủ giường,…
3. Kết bài:
- Xoài từ lâu đã trở thành loài cây quen thuộc với người dân Việt Nam, là dấu hiệu mỗi khi hè về
Bài làm
Đất nước Việt Nam với khí hậu nóng ẩm là nơi thích hợp cho nhiều loài cây sinh sống, mỗi mùa lại cho ta những thức quả khác nhau. Nếu xuân là hồng xiêm thơm nức, thu là quả ổi dân dã, đông là lê thanh mát thì hạ là những trái xoài lúc lắc trên cây. Xoài vừa là loại trái cây quen thuộc, vừa là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê.
Người ta không biết xoài có nguồn gốc từ đâu, nhưng nhiều phát hiện chỉ ra xoài có nguồn gốc ở Nam Á và Đông Nam Á, từ đó nó đã được phân bố trên rộng khắp thế giới và trở thành loài cây quen thuộc tại các vùng đất nhiệt đới.
Xoài là cây thân gỗ lớn, khỏe và chắc, một cây trưởng thành có thể cao từ mười đến hai mươi mét. Để có thể giúp cây cao lớn và vững chắc như vậy không thể không kể đến bộ rễ của cây. Rễ cây xoài là rễ cọc có thể dễ dàng ăn sâu xuống dưới đất, hút nước và các chất khoáng để nuôi dưỡng sự sống cho cây. Không chỉ là một loài cây cho trái, xoài, cũng như bàng, phượng hay bằng lăng, được trồng để lấy bóng mát. Tán của xoài rất rộng bởi cành lá xum xuê, nhìn từ xa trông như chiếc dù xanh mát rộng lớn rợp bóng râm cả một khoảng sân, che mát trong những ngày hè nóng nực. Khác với phượng, xoài là cây lá đơn với những phiến lá thuôn dài, bề mặt nhẵn và có mùi thơm riêng biệt độc đáo. Khi còn non, lá xoài có màu tím pha đỏ; khi lá đã trưởng thành thì có màu xanh nhạt; còn lúc đã về ”xế chiều” thì lá lại mang sắc xanh đậm đà.
Xoài cho bóng mát, cho lá, cho cành còn cho cả hoa. Hoa xoài nhỏ xíu như ngôi sao trên bầu trời rộng lớn nhưng không đứng riêng lẻ mà mọc thành chùm ở ngọn cành, mỗi chùm hoa dài tầm ba mươi centimet, cứ mỗi chùm như thế là xoài đơm nở cho ta hai trăm đến bốn trăm bông hoa. Cũng như nhiều loài cây cho trái khác, có hoa xoài rồi mới có quả. Khi hoa già, rụng xuống đất cũng là lúc xoài kết trái. Trái xoài thon ở hai đầu và phình to hơn ở giữa. Khi mới còn là trái non thì xoài có màu xanh đậm, nhưng khi đã chín và có thể thu hoạch thì thường mang sắc vàng hoặc xanh pha vàng. Chính màu vàng ươm như màu nắng hạ này khiến cho trái xoài trở thành loại hoa quả được ưa chuộng mỗi khi hè về, với vị chua và ngọt rất hài hòa, không ngọt sắc như mía hay chua gắt như quất, như chanh. Vẻ ngoài đẹp mắt cùng vị thơm ngon hài hòa, kết hợp với mùi hương dịu nhẹ nhưng đầy hấp dẫn, đã khiến cho loại trái cây này như một đặc sản không thể thiếu mỗi khi hè về.
Xoài có thể được chia ra thành nhiều loại như xoài Cát, xoài Tượng, xoài Thái,… với nhiều hương vị khác nhau phù hợp với sở thích và gu ăn uống của từng người.
Được trồng phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác, xoài là một loài cây có nhiều giá trị sử dụng. Tán rộng nên được trồng để lấy bóng mát. Nhưng chiều hè nắng chói, được ngồi dưới gốc xoài, nhìn nhưng quả xoài mới nảy lúc lắc trên cây khi gió thổi qua cũng là thú vui của nhiều người muốn yên tĩnh sau những giờ làm việc căng thẳng. Những ai đã đi qua thời học sinh la cà quán ăn vặt cổng trường hẳn cũng không thể nào quên hương vị của những túi xoài muối ớt, ăn vừa cay vừa chua mà vẫn rất nghiền. Xoài cũng được trồng như một loại cây xanh đô thị bởi không cần phải quan tâm nhiều đến việc chăm bón. Nhưng giá trị nhất ở xoài là lấy trái, ăn rất ngọn và bổ. Bởi vậy mà không chỉ được yêu thích trong nước mà xoài còn là loại trái cây được xuất khẩu, đóng góp một phần không nhỏ cho nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Người dân không chỉ ăn xoài khi đã chín mà còn lấy xoài xanh để ăn sống, nhai rồn rột và có vị chua không quá gắt, chấm với mắm đường ăn rất ngon và có hương vị độc đáo. Chưa có loại quả nào được ăn với loại nước chấm như vậy cả. Bên cạnh đó, với thân to và chắc, gỗ xoài cũng được dùng làm bàn ghế, tủ giường,…
"Một vườn xoài rung rinh lá sáng
Một vườn xoài chạy dài thăm thẳm
Một vườn xoài rợp mát tuổi thơ ngây
Một vườn xoài xanh biếc dưới mây bay"
Đó là những câu thơ Lưu Quang Vũ viết trong “Mùa xoài chín”. Xoài từ lâu đã trở thành loài cây quen thuộc với người dân Việt Nam, là dấu hiệu mỗi khi hè về và cành lá rung rinh trong gió cũng gọi về cả một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp
Bình luận