Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hòa nhập vào đời sống, sinh hoạt văn hóa của dân tộc Việt Nam. Bạn hãy nêu một trường hợp có sử dụng hình thức đố Kiều, lấy Kiều hoặc vịnh Kiều.

TRƯỚC KHI ĐỌC 

Câu hỏi: Truyện Kiều của Nguyễn Du đã hòa nhập vào đời sống, sinh hoạt văn hóa của dân tộc Việt Nam. Bạn hãy nêu một trường hợp có sử dụng hình thức đố Kiều, lấy Kiều hoặc vịnh Kiều.


Kể từ ngày Truyện Kiều được phố biến rộng rãi cho đến nay, thiên hạ vẫn tiếp tục tìm hiểu sức hấp dẫn và nghiên cứu kiệt tác này dưới nhiều góc độ khác nhau. Có lẽ, trên thế giới chỉ có Truyện Kiều là trường hợp duy nhất mà độc giả đã dùng tác phẩm để bói cho số phận của mình. Và bản thân tác phẩm đã được quần chúng sử dụng để trở thành một sinh hoạt văn hóa rất đa dạng. Ta có thể kể đến: bói Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, nhại Kiều, vịnh Kiều…hoặc dùng các thể loại phú, văn tế, văn sách, biểu, từ khúc, ngâm khúc… để viết về Kiều và các nhân vật trong Truyện Kiều. Ngoài ra, Truyện Kiều còn được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, chèo, cải lương… và cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho các họa sĩ vẽ nhân vật, cảnh vật trong tác phẩm này…
Thông thường khi muốn “bói Kiều”, người ta khăn áo chỉnh tề, tay cầm cuốn Truyện Kiều, thành tâm với điều mà mình muốn biết sắp xảy ra như thế nào, nhìn nén hương đang cháy nghi ngút và khấn: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều con tên là… xin cho con biết chuyện X của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang (phải hoặc trái), dòng thứ… (tính từ dưới lên hoặc từ trên xuống)”. Khấn xong thì người bói lật trang Kiều để tìm câu ứng nghiệm, tùy theo tâm thế của mình mà suy ngẫm, so sánh, tính già tính non…
Tại sao lại dùng Truyện Kiều để bói? Tiến sĩ Đào Nguyên Phổ từ năm 1895 cũng đã đặt câu hỏi như thế và ông lý giải phải chăng văn chương Truyện Kiều là một “khúc tình từ quán tuyệt thiên cổ… cho nên chẳng những làm say lòng người đọc mà còn cảm thông được thần linh nữa?”.
“Lẩy Kiều” là dùng câu 6 ghép vào câu 8 - lấy bất kỳ câu nào trong 3.254 câu trong Truyện Kiều miễn là cùng vần để tạo ra một văn bản hàm nghĩa khác; dài ngắn như thế nào là tùy vào nội dung mà người lẩy Kiều muốn diễn đạt. Còn “tập Kiều” người ta cũng ghép như trên, nhưng bên cạnh những chữ nguyên vẹn từ Truyện Kiều thì còn có những câu, những chữ do người đặt làm ra. Với lối chơi tao nhã như thế này, cả hàng ngàn bài thơ mang nhiều nội dung, chủ đề khác nhau đã ra đời. Điều thú vị là có người đã miêu tả được cả những điều mà sinh thời thi hào Nguyễn Du không ngờ đến. Chẳng hạn như… xe hơi:
Thênh thang đường cái thanh vân
Một xe trong cõi hồng trần như bay
“Nhại Kiều” là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra những câu tương tự, thường là để châm biếm, giễu cợt. Chẳng hạn, với hai câu: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần” thì có người “nhại Kiều” là:
Có tiền mà cậy chi tiền
Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay
Nhưng công phu hơn cả phải kể đến Kiều tân thời dài 310 câu của Bạch Diện, in tại Hà Nội năm 1935; Kiều bình dân học vụ của Nguyễn Văn Trinh, dài 2.050 câu lục bát viết từ sau Cách mạng tháng Tám nhằm tuyên truyền cho chủ trương xóa nạn mù chữ…
“Vịnh Kiều” là lấy Truyện Kiều hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài để qua đó giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Chẳng hạn bài Vịnh thằng bán tơ, cụ Nguyễn Khuyến viết trong đó có câu:
Có tiền việc trước mà xong nhỉ,
Thời trước làm quan cũng thế a?
thì đâu phải chỉ vịnh thằng bán tơ mà còn là lời tố cáo tệ nạn tham nhũng của xã hội đương thời. “Đố Kiều” là người chơi dựa vào cả ý lẫn âm hoặc chỉ âm và ý của câu Kiều để đố. Chẳng hạn:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem con tạo xoay vần ra sao.
được giải là “cái kệ” vì đồng âm với “mặc kệ”. Hoặc:
Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn
Khuôn thiên có biết vuông tròn mà hay
Chẳng duyên chưa dễ vào tay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
được giải là “cái quạt giấy”…
Cách chơi “câu đối” hoặc “đề vịnh” thì cũng lấy từ các câu thơ trong Truyện Kiều mà sắp xếp thành. Chẳng hạn, có câu đối đề nhà thờ Nguyễn Du:
Khúc đầu lưu thủy hành văn, để tiếng tài tình chung đất nước;
Chốn ấy sơn hồ cổ thụ, nhớ người thanh khí nặng non sông.
Hoặc đề quán trà của vợ chồng nhà thơ già:
Chung lưng mở một ngôi hàng, khi trà trưa, khi rượu sớm;
Vỗ tay nên mười khúc ngâm, này ngọc nhả, này châu phun.
Khảo sát ca dao, dân ca, hát trống quân, hát ví, hát sa mạc, hát giặm ta cũng thấy nhân vật trong Truyện Kiều được đi vào trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chẳng hạn, trong hò Nam bộ:
Đường Sài Gòn trơn như mỡ
Cát núi Sập lạnh như gương
Dang tay đưa bạn lên đường
Gá duyên để gió, khác chi Kim Trọng về để lại khúc đoạn trường cho Kiều nương
Trong hò Huế ở Bình Trị Thiên:
Sen xa hồ sen khô hồ cạn
Lựu xa đào lựu ngã đào nghiêng
Xa em ngày tháng gieo phiền
Khác nào như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho hết sầu
Trong hò khoan Quảng Nam:
Kể từ ngày xa cách người thương
Về nhà đài sen nối sáp đọc mấy chương phong tình
Đọc tới đoạn Thúy Kiều xa cách Kim sinh
Thôi Oanh Oanh xa Trương Quân Thụy, nghĩ tội tình biết chừng mô!
Hoặc trong hát quan họ Bắc Ninh:
Bây giờ tôi mới gặp tình
Khác gì Kim Trọng thanh minh gặp Kiều
Tiện đây tôi hỏi một điều
Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau?
Tư khi ăn một miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu tương tư…
Trong hát đối đáp về nội dung Truyện Kiều cũng là một sinh hoạt rất độc đáo trong dân gian. Chẳng hạn:
Vấn:
-Truyện Kiều anh thuộc đã thông,
Đố anh kể được một dòng chữ Nho?
Đáp:
-Hồ công quyết chí thừa cơ,
Lễ tiền binh hậu, khắc cờ lập công

Trắc nghiệm Ngữ văn 11 Kết nối bài 6: Tác gia Nguyễn Du (P2)

Bình luận

Giải bài tập những môn khác