Câu hỏi 4

III. Thực hành viết 

Chuẩn bị 

Lập dàn ý 

Viết 

Chỉnh sửa, hoàn thiện 

IV. Báo cáo kết quả 

1. Hình thức tổ chức

2. Tiêu chí đánh giá bài viết 

Câu hỏi 4 : 

  • Sưu tầm những bài viết hay, có giá trị về một tập thơ, tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết để mở rộng kiến thức và học hỏi kinh nghiệm viết.
  • Tìm hiểu về phong cách viết của những tác giả có bài học được sưu tầm ở trên.
  • Viết về một tập thơ, tập truyện ngắn hoặc tiểu thuyết đã đọc.


  • Bài “Bảo kính cảnh giới” – Nguyễn Trãi

Kinh qua bao sóng gió trong cuộc đời, Nguyễn Trãi đã rút cho mình những chiêm nghiệm hết sức sâu sắc về lẽ đời, tình người. Những chiêm nghiệm đó đã được ông gửi gắm trong thơ ca và trở thành những triết lí vô cùng sâu sắc:

Nên thợ nên thầy vì có học,

No ăn no mặc bởi hay làm.

(Bảo kính cảnh giới, bài 46)

Hai câu thơ, mỗi câu đều có hai vế, vế trước chỉ kết quả (nên thợ nên thầy, no ăn no mặc), vế sau chỉ nguyên nhân (có học, bởi hay làm). Có học hành thì mới nên thợ nên thầy, chăm làm thì mới no ăn no mặc, triết lí ấy giản dị quá và cũng đúng đắn quá! Công danh sự nghiệp của mỗi người có được thăng tiến, cuộc sống của mỗi người có được ấm no hay không, tất cả đều do sự chăm chỉ, chuyên cần học tập, lao động của chính bản thân họ. Câu thơ nói cái lẽ giản đơn mà sâu sắc về việc học, việc làm của con người. Với bất kì bài toán cuộc đời nào, đó cũng luôn là một nghiệm số đúng.

Thật vậy, mỗi chúng ta tồn tại trong cuộc sống không chỉ đơn thuần là những thực thể sinh học. Cuộc đời con người chỉ thực sự có ý nghĩa khi mỗi người biết khẳng định vị trí của mình trong cuộc sống. Người thợ nếu không “trăm hay” thì sao được “tay quen”? Người học trò nếu không chăm chỉ học tập thì làm sao có thể nắm được các bài học trên lớp? Một học trò, một anh công nhân, một kĩ sư, bác sĩ.. thậm chí cả một người thầy, nếu không học, không lao động thì không thể trở thành “thợ” hay “thầy” được. Dẫu là “thợ” hay là “thầy”, ai cũng phải “học” thì mới có kiến thức để lao động, để áp dụng thực tiễn, từ đó mới “no ăn-no mặc”, mới sung túc, đủ đầy.

Với học sinh chúng ta, việc học cung cấp những tri thức toàn điện, chuyên sâu, để chúng ta có thể hiểu hơn về cuộc sống, từ đó lựa chọn cách ứng xử phù hợp để thích nghi với cuộc sống. Các môn học tự nhiên dạy cho chúng ta cách tư duy, tính toán khoa học. Các môn học xã hội dạy chúng ta biết sống nhân văn, sống đúng là một Con Người… Các bài học trong trường đời giúp chúng ta biết đối nhân xử thế khéo léo. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, việc học là một trong những nhiệm vụ quan trọng và là con đường vững chắc nhất cho chúng ta hành trang thiết yếu để bước vào đời.

Mặt khác, phải thấy rằng kiến thức là vô bờ bến, là không cùng, không tận. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật công nghệ hiện nay, lượng kiến thức mỗi ngày càng dày lên gấp bội. Vì vậy chỉ có sự chăm chỉ, chuyên cần mới không khiến chúng ta tụt hậu. Ê-đi-xơn, nhà bác học nổi tiếng thế giới từng nhắc nhở loài người rằng: Thiên tài và óc sáng tạo chỉ chiếm một phần trăm còn chín mươi chín phần trăm còn lại là lao động cực nhọc. Có thể chúng ta may mắn sở hữu một bộ óc nhanh nhạy, thông minh nhưng nếu không chăm chỉ học tập thì có lẽ những gì chúng ta có mãi mãi chỉ ở trong ngăn kéo não bộ.

Trở lại với câu thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy trong trật tự sắp xếp câu thơ, tác giả đã đưa vế chỉ kết quả lên trước rồi mới nói đến nguyên nhân. Phải chăng, trong lời nhắc nhủ của mình, Nguyễn Trãi còn có ý động viên, khích lệ chúng ta: Kết quả xứng đáng sẽ đến với những ai chăm học, chăm làm.

Câu thơ của Nguyễn Trãi đã hàng trăm năm tuổi nhưng cho đến tận bây giờ và có lẽ là đến muôn đời vẫn còn có giá trị nhân văn sâu sắc. Và chúng ta – những người trẻ hôm nay phải luôn nhớ rằng: Muốn nên người muốn trở thành người thành đạt, trở thành người có ích cho xã hội thì nhất thiết phải ham học hỏi, rèn luyện mỗi ngày.

  • Phong cách sáng tác của Nguyễn Trãi

Tư tưởng nhân nghĩa và niềm trăn trở về thế thái nhân tình

Tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Trãi là nhà Nho hành đạo, người thấm sâu tư tưởng đạo lý Nho gia, người sống luôn đặt chữ “Nhân”, chữ “Đức”, chữ “Nghĩa” lên đầu. “Nhân nghĩa”, hiểu một cách đơn giản là lòng yêu nước, thương dân. Phạm Văn Đồng cho rằng: “Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” không chỉ là tư tưởng chính trị, tình cảm, tấm lòng với dân với nước, mà nó đã trở thành tư tưởng nghệ thuật, thành cảm hứng thẩm mĩ, chảy dài, xuyên suốt toàn bộ sáng tác của ông từ chữ Hán đến chữ Nôm, từ văn chính luận đến thơ ca thẩm mĩ.

Mở đầu tác phẩm Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. “Nhân nghĩa” theo Nguyễn Trãi là “cốt ở yên dân”, là “điếu phạt”. “Nhân nghĩa” là làm cho dân được bình yên, hạnh phúc. Hai từ “điếu phạt” xuất phát từ cụm từ “điếu dân phạt tội”, tức thương yêu nhân dân mà trừng trị kẻ có tội với nhân dân, trừng trị lũ giặc cướp nước. Như vậy, cốt lõi của tư tưởng “nhân nghĩa”, theo Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước thương dân, là mong mỏi, đấu tranh cho sự yên bình, hạnh phúc của nhân dân, là trừng trị những kẻ có tội với nhân dân. Áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi vâng lệnh vua mà viết; nhưng sở dĩ nó trở thành bất hủ một phần quan trọng bởi đây cũng là một cơ hội ngàn vàng để Nguyễn Trãi tự bộc bạch, giãi bày khát vọng, ý chí nung nấu suốt một đời. Trong Thư lại dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi phân tích sáu cớ bại vong của kẻ thù, nhưng nguyên nhân chủ yếu là “lừa dối dân ta, dụ dỗ những điều phi nghĩa”. Nhân nghĩa là ngọn cờ tư tưởng, yêu dân là đạo lý làm người. Kẻ phi đạo sẽ bị trừng phạt, đó là luật trời hiển nhiên mà Nguyễn Trãi chỉ là người phát ngôn khi có trong tay sức mạnh nghĩa nhân làm vũ khí.

Hòa bình lập lại, ngọn lửa “điếu phạt” lắng xuống, nhường chỗ cho ước vọng “Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Bảo kính cảnh giới, số 43), cho cảm hứng thương dân, thân dân: Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền/ Cành Bắc cành Nam một cõi tiên (Bảo kính cảnh giới, số 15); Yêu trọng người ngay là của cải/ Thương vì thân thích nghĩa chân tay (Bảo kính cảnh giới, số 18); Bui một tấc lòng ưu ái cũ/ Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng (Thuật hứng, số 5), cho lòng trung hiếu: Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chẳng khuyết, nhuộm, chẳng đen (Thuật hứng, số 24); Cơm áo khôn đền Nghiêu, Thuấn trị/ Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh (Thuật hứng, số 2)...

Yêu nước, thương dân là phạm trù không có gì mới mẻ trong mạch nguồn văn chương dân tộc từ khi văn học viết xuất hiện (thế kỷ X) trở đi. Nhưng đó là hiện tượng một bài, một vài bài. Còn với Ức Trai là bản chất, là cốt cách, là mạch nguồn không bao giờ vơi cạn trong sáng tác. Nó cuồn cuộn trào dâng, tỏa sáng và soi đường cho từng câu, từng chữ trong thơ văn ông, tạo thành “cái nhìn”, thành đặc trưng riêng độc đáo, có tính thẩm mĩ, mang tính quy luật, hun đúc nên phong cách nghệ thuật Nguyễn Trãi.

Niềm trăn trở về thế thái nhân tình. Ngặt một nỗi, càng yêu đời, yêu nước, thương dân Nguyễn Trãi càng mang nặng nỗi niềm trăn trở về cuộc sống, về lẽ đời, về con người. Bất mãn với triều chính, Nguyễn Trãi tìm đến với thơ ca để bày tỏ lòng mình, bày tỏ những nhận thức sâu cay về thế sự: Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc/ Cho hay đường lợi cực quanh co (Ngôn chí, số 19). Nhà thơ yêu tình yêu con người và đau nỗi đau của con người. Nguyễn Trãi đau đớn khi chứng kiến nghịch cảnh éo le của xã hội: Làm người mựa cậy khi quyền thế/ Có thuở bàn cờ tốt đuổi xe (Trần tình, số 8). Từ nỗi đau trước thói đời đen bạc, nhà thơ khao khát sự hoàn thiện của con người và mơ ước về một xã hội thái bình, thịnh trị: Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/ Dường ấy ta đã phỉ sở nguyền (Tự thán, số 4).

Và cũng như bao nhà Nho hành đạo khác, khi khát vọng xả thân thực hiện lý tưởng “trí quân trạch dân” không thực hiện được, Nguyễn Trãi chọn con đường lui về ẩn dật, làm bạn với thiên nhiên cây cỏ. Thiên nhiên trong thơ ông theo đó hiện ra có lúc hoành tráng: Kình ngạc băm vằm non mấy khúc/ Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng (Cửa biển Bạch Đằng, bản dịch). Có lúc gần gũi, thân thương, đầm ấm, chan hòa tình cảm của con người với thiên nhiên: Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai (Côn Sơn ca). Có lúc như những bức tranh lụa xinh xắn, phảng phất phong vị thơ Đường: Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/ Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu (Bảo kính cảnh giới, số 26). “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo một tâm hồn” (Xuân Diệu). Nhưng cách miêu tả thiên nhiên lại thể hiện một “cái nhìn”, khẳng định một bản ngã, một tài năng: Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm/ Tình thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem (Cây chuối). Cách lựa chọn và sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng của Nguyễn Trãi ở bài thơ này rất gần với chủ nghĩa tượng trưng trong văn học Pháp. Bút pháp ấn tượng thay cho tả thực, đó là cách phác họa rất tài tình, hình ảnh cây chuối vì vậy mang tính cách điệu rất cao. Màu sắc, đường nét mờ nhòe ẩn hiện, huyền hoặc. Sức sống cây chuối trỗi dậy do “tự bén hơi xuân”, bén vào hơi xuân mà tốt tươi hẳn lên. Các từ “bén”, “mầu” kết hợp với các hình ảnh “buồng”, “tình thư”, “gió”, động từ “mở”, tính từ chỉ trạng thái “gượng”, tạo nên sự cộng hưởng của sức sống, sức xuân, hương xuân ngào ngạt như một kết cục mãn khai đầy mầu nhiệm. Tâm hồn trẻ trung yêu đời đã thôi thúc nhà thơ viết nên những câu thơ tình tứ và tài hoa. Sự tươi tắn của thơ Ức Trai rất “đời”, rất cá tính, nghệ thuật tả cảnh trong thơ ông cũng theo đó mà hình thành dấu ấn sáng tạo riêng biệt.

Nói vậy, với Ức Trai, chìm đắm trong cảnh đẹp thiên nhiên, dẫu nhàn rỗi hóng mát vẫn chỉ là sự bất đắc dĩ mà thôi. Tận sâu trong tâm hồn thi nhân luôn mang nặng một nỗi niềm canh cánh: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương (Bảo kính cảnh giới, số 43). Niềm trăn trở lo lắng cho dân, làm sao cho nhân dân “đủ khắp” mọi nơi trên đất nước được ấm no, hạnh phúc là khao khát, là tâm nguyện suốt đời của Nguyễn Trãi. Tâm nguyện đó dù nuôi chí xả thân thực hiện lý tưởng suốt cả cuộc đời, Ức Trai vẫn không dễ bề thực hiện, không thể gánh vác một mình, rất cần sự đồng tâm giúp sức của triều chính. Vì thế, gặp buổi triều đại nhiễu nhương, lòng người cạn hẹp, nhà thơ canh cánh khôn nguôi một nỗi tiếc đời, tiếc mình không còn đấng minh quân để thờ phụng: Những vì chúa thánh âu đời trị/ Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn (Tự thán, số 2).

Rõ ràng, Nguyễn Trãi thân nhàn mà tâm chẳng nhàn. Về với thiên nhiên, với “Sách một hai phiên làm bầu bạn” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì “Trăm năm trong cuộc nhân sinh”, vì không chịu đựng được “mùi thế tình”. Hi vọng của một nhà Nho “chính thống”, khát vọng hành đạo, sống như cây tùng cây bách chỉ là ảo tưởng viển vông. Bi kịch của Nguyễn Trãi là ở chỗ biết viển vông mà vẫn không thôi khao khát ! Vì khao khát nên trăn trở khôn nguôi về thế thái nhân tình! Nỗi niềm trăn trở đó trở đi trở lại trong rất nhiều sáng tác của ông, tạo nên dấu ấn riêng biệt, góp phần khắc họa phong cách nghệ thuật nhà thơ.

Sự sáng tạo về thể loại và ngôn ngữ

Nhìn ở góc độ loại hình tác giả văn học trung đại, Nguyễn Trãi thuộc kiểu tác giả sáng tác cả chữ Hán và Chữ Nôm (tác giả song ngữ), sáng tác cả văn xuôi chính luận và thơ ca thẩm mĩ. Ngoài ra, ông còn có nhiều công trình khảo cứu về nhiều lĩnh vực địa lý, lịch sử, quân sự, ngoại giao. Nhưng dù là nghiên cứu, nghị luận hay sáng tác thơ, văn ông vẫn là con người ông. Con người ấy vừa uyên bác về trí tuệ vừa dào dạt tâm hồn lộng gió thời đại. Văn của Nguyễn Trãi giàu tính hình tượng, tính thẩm mĩ, tính trữ tình. Ông vừa kế thừa những thành tựu thơ ca của văn học nước nhà những thế kỉ trước, vừa góp phần quan trọng vào việc định hướng mới cho sự phát triển văn học dân tộc các thời kì sau. Những sáng tạo có tính định hướng cho sự phát triển của thơ ca dân tộc của Nguyễn Trãi được biểu hiện trên hai lĩnh vực nổi bật là thể loại và ngôn ngữ.

Sáng tạo về thể loại. Tập thơ Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán, mẫu mực với niêm, với luật, với kết cấu đề - thực - luận - kết, hình ảnh, thi liệu trang trọng, mỹ lệ. Nhưng trong tập thơ Nôm Quốc âm thi tập, nhà thơ đã bứt phá, cách điệu đi rất nhiều. Biểu hiện rõ nhất của sự bứt phá ấy là ông đã đưa vào bài thơ thất ngôn những câu thơ sáu chữ. Vị trí câu thơ sáu chữ này không ổn định trong mỗi bài thơ. Có khi ở câu đầu và câu cuối: “Rồi, hóng mát thưở ngày trường… Dân giàu đủ khắp đòi phương” (Bảo kính cảnh giới, số 43), có khi ở hai câu đề: “Lánh trần náu thú sơn lâm/ Lá thông còn tiếng trúc cầm” (Thuật hứng, số 25), có khi ở hai câu luận: “Thấy nguyệt tròn thì kể tháng/ Nhìn hoa nở mới hay xuân” (Tự thán, số 32), có khi một câu luận, một câu kết: “Tạo hóa đong lừa trẻ chơi… Sự thế đã hay thì vậy” (Thuật hứng, số 34). Tập thơ Quốc âm thi tập có 254 bài thơ thất ngôn Đường luật, trong đó có 185 bài thơ thất ngôn có xen câu thơ lục ngôn. Vì thế, có thể khẳng định Nguyễn Trãi là người đã sáng tạo ra thể thơ Thất ngôn xen lục ngôn. Sự sáng tạo ấy phải chăng biểu hiện khát vọng tìm về nguồn cội ? Thơ lục bát Việt Nam đã xuất hiện từ lâu trong ca dao, trong mạch nguồn văn hóa của dân tộc. Sự cách tân táo bạo xuất hiện với tần số cao trong tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi báo hiệu ý thức dung nạp, dung hòa thứ thơ ngoại nhập (thơ Đường) với văn chương bản địa, tạo nên cốt cách cá nhân nhà thơ - hòa trong cốt cách dân tộc, cốt cách thời đại.

Sáng tạo về ngôn ngữ. Tính quy phạm trong văn học Việt Nam trung đại đã gò ngôn ngữ thơ vào hàng rào bao quanh cái gọi là thanh nhã, trang trọng, trừu tượng, cổ kính. Ngôn ngữ thơ ca trong sáng tác của Ức Trai không dựa vào khuôn vàng thước ngọc. Ông đã mạnh dạn mở cánh cửa thi ca cho ngôn ngữ đời thường, cho thành ngữ, tục ngữ, ca dao tràn vào: Ao quan thả gửi hai bè muống/ Đất bụt ương nhờ một lảnh mùng (Thuật hứng, số 23). Rất nhiều bài thơ, tài thơ Nguyễn Trãi đã vận dụng lại một cách tài tình ý, lời, đôi khi nguyên vẹn cả một câu tục ngữ, ca dao. Tục ngữ có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, nhà thơ viết: Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế/ Ắt đã tròn bằng nước ở bầu (Trần tình, số 4).

Ca dao có những câu: “Trăm năm bia đá thì mòn”, “Mật ngọt thì ruồi chết tươi”, Nguyễn Trãi có thơ: “Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn” (Tự thán, số 22); “Miệng người như mật mùi qua ngọt” (Tự thán, số 21). Nhà thơ đã khéo léo sắp đặt các kinh nghiệm sống của nhân dân được đúc kết qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ, để biểu đạt quan điểm về cách sống, cách ứng xử ở đời. Từ kiểu nói dân gian nhưng lại được diễn đạt theo cách riêng và được xếp đặt theo một lôgic là nét độc đáo riêng biệt của Nguyễn Trãi. Bình dị, thân thương, ít cầu kì, không đẽo gọt, thơ Nôm Nguyễn Trãi không vì thế mà giảm đi ý vị triết lý nhân sinh sâu xa.

  • Cảnh ngày hè

Thiên nhiên là nguồn cảm hứng thơ bất tận, để người nghệ sĩ mài mực viết nên những trang hoa tờ hoa của mình. Đến với Cảnh ngày hè người đọc bắt gặp một bức tranh thiên nhiên mới mẻ, sinh động, giàu sức sống nội lực toát ra từ chính cảnh vật. Điều khiến bài thơ trở nên đặc biệt là ở chỗ, bức tranh cảnh ngày hè được pha trộn giữa những đường nét mới mẻ hiện đại, đậm chất sống nguyên sơ của cuộc sống đời thường - điều vô cùng hạn chế trong văn học trung đại, kết hợp với chất liệu cổ điển của một mùa hè đã đi vào điển tích, từ đó khiến bài thơ mang đậm dấu ấn riêng của hồn thơ Nguyễn Trãi.

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Với cương vị là một bậc công thần của dân tộc, ngày ngày mang vác trên vai gánh nặng chính sự, quốc sự thì hình ảnh Nguyễn Trãi trong câu thơ đầu này quả thực có chút lạ lẫm. Nhưng “Hóng mát thuở ngày trường”, phần nào cho người đọc thấy một tâm thế khác của Nguyễn Trãi, ông phải chăng đã tạm gác việc triều chính, thế sự nhiễu nhương sang một bên, tạm lánh đục về trong, sống đời sống của một hiền nhân thanh cao không vướng bụi trần. Phần nào có lẽ cũng vì thế, mà tâm hồn thi sĩ, tình yêu thiên nhiên trong thi nhân đã khiến những cảnh sắc thiên nhiên vốn thân thuộc, bình dị trở nên mơn mởn sức sống sức xanh:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”

Nếu trong thơ Mới ta bắt một thế giới hữu sắc đa hương, mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ thì ngược dòng thời gian trở về trước, văn học trung đại còn kiềm tỏa sự sáng tạo và cái tôi nghệ thuật. Thiên nhiên cũng không được tự do thể hiện bản sắc đa dạng và sức sống nội lực của nó, thiên nhiên trong văn học trung đại vẫn là những ước lệ điển hình mà người sau kẻ trước noi theo. Thế nhưng, đến với Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ta dường như cảm nhận được một nội lực khác tỏa ra từ bài thơ. Vẫn là những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên ngày hè, nào hòe, nào lựu, và cả hồng liên trì. Cái mới lạ ở đây là cách Nguyễn Trãi gọi dậy sức sống ở trong từng loại thảo mộc, là ở ngòi bút rất có hồn của thi nhân như đã điểm bút lực vào cho cả những thứ tưởng rất đỗi vô tri. Các động từ mạnh “đùn đùn, phun, tiễn” cho thấy sức sống căng tràn, dồi dào, thấy được nhựa sống đang lên trong lòng vạn vật. Thơ trung đại ưa vẻ đẹp của cái tĩnh, thanh trong vị, đạm trong màu sắc, ít khi nào ta thấy thiên nhiên trong thơ trung đại có những chuyển động mạnh, ấy vậy mà trong thơ Nguyễn Trãi sự sống như đang phun trào từ chính bản thân của cảnh vật. Đó không chỉ là sức sống, mà còn là nội lực sống căng tràn, tưởng như đang chảy tràn trên trang sách. Nghe thấy được những chuyển động tế vi, mạch sống quý giá ấy bên trong cảnh vật thiên nhiên, Nguyễn Trãi qủa nhiên phải là một hồn thơ vô cùng tinh tế với những sợi tơ đàn bén nhạy đến độ. Có được cảm quan đó, hẳn đấy phải là một tâm hồn yêu thiên nhiên, và rạo rực với niềm tin vào cuộc sống, vào dòng lưu chuyển đất trời. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi nhờ những chuyển động mạnh mẽ đầy nội lực ấy mà bớt đi vẻ đài các cao sang ước lệ của văn chương cổ điển, mà mang đậm hơi thở của cuộc sống:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

Ở trên là bức tranh thiên nhiên rạo rực sức sống, thì ở dưới là hình ảnh cuộc sống bình dị, câu trên là dân dã thường ngày câu dưới lại vẫn pha chút ước lệ cổ điển của văn học trung đại. Rõ ràng, trong tâm niệm của người Việt, hình ảnh chợ biểu hiện phần nào chất lượng cuộc sống, ở câu thơ này, chợ cá “lao xao”, phần nào thấy được cuộc sống no đủ, tấp nập, buôn bán huyên náo của người dân chứ không còn “lác đác bên sông chợ mấy nhà nữa”. Chính những gợi ý nho nhỏ từ câu thơ này, mà ở dưới mong ước của bậc trung quân, yêu nước thương dân càng thêm sâu sắc, rõ nét:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương".

Điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn là hình ảnh về đời sống nhân dân an cư lạc nghiệp, thái bình thịnh trị. Từ đây, có thể hiểu tấm lòng tác giả đó là ông khao khát, mong muốn, mong mỏi nhân dân có cuộc sống an lạc, thái bình, không trải qua cảnh binh đao giày xéo. Chính ước mơ ấy đã phần nào giúp ta hiểu hơn về tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ.

Bằng việc sử dụng sinh động, linh hoạt các động từ mạnh mang đến nội lực từ bên trong sự vật, Nguyễn Trãi dường như không chỉ đang khắc họa bức tranh mùa hè mà còn đang khiến sự vật tự họa mình trên trang viết, tự thể hiện sức sống nội lực, căng tràn của chính nó, có lẽ vì thế mà dẫu sử dụng kết hợp một vài chất liệu cổ điển đã cũ đã quen, bài thơ của Nguyễn Trãi vẫn để lại dấu ấn riêng của hồn thơ ông. Đặc biệt, đằng sau bức tranh thiên nhiên, điều đọng lại làm xúc động trái tim người đọc là tấm lòng lo cho nước, thương dân của nhà thơ.

Bằng chiếc thuyền tâm hồn có mái chèo là ngòi bút, Nguyễn Trãi đã mang cả tâm hồn yêu thiên nhiên và cái đẹp vào trang viết, để khiến sự vật như hồi sinh và thể hiện sức sống nội lực bên trong cảnh vật. Bên cạnh đó, một cách giản dị và sâu sắc bài thơ còn khiến người đọc thêm ngậm ngùi và thấm thía bởi tấm lòng cao cả của Nguyễn Trãi khi luôn một lòng yêu nước, thương dân.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác