Câu hỏi tự luận mức độ vận dụng cao Ngữ văn 9 cd bài 7: Chiều xuân (Anh Thơ)

4. VẬN DỤNG CAO (2 câu)

Câu 1: Viết dàn ý phân tích bài thơ Chiều xuân của Nguyễn Anh Thơ?

Câu 2: Viết bài văn phân tích thơ Chiều Xuân?


Câu 1: 

I. Mở bài

- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:

+ Anh Thơ (1921 - 2005) là một nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện đại với những tác phẩm thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc.

+ Chiều xuân trích từ tập thơ đầu tay “Bức tranh quê” in năm 1941.

2. Thân bài

a) Luận điểm 1: Bức tranh chiều xuân

Bến vắng chiều xuân (Khổ 1)

"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời"

- "mưa bụi, con đò, nước sông trôi, quán tranh vắng, hoa xoan tím,…"

-> Những hình ảnh quen thuộc đặc trưng cho miền quê Việt Nam: bến đò vắng khách, con đò nằm yên một chỗ, quán nhỏ, cây xoan đầy hoa tím...

=> Cảnh đẹp, êm ả, yên bình nhưng gợn buồn.

- "Êm êm": từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào, vội vã hay nặng hạt mà có chút gì đó như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian.

- "êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời"… : gợi tả sự vắng lặng của chiều quê.

=> Cuộc sống yên tĩnh có phần ngưng đọng: chiều mưa lạnh, bến sông ven làng tiêu điều, vắng vẻ; một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng.

* Đường đê chiều xuân (Khổ 2)

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa

- "cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,..." -> những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ

- "sà xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả..." -> Từ ngữ diễn tả hoạt động

-> Bức tranh có sự chuyển đổi từ gam màu buồn sang sự sống, gam màu xanh "biếc" của cỏ, từ tĩnh sang động

=> Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi, độc đáo và nên thơ, cảnh quen thuộc trở nên mới mẻ, sinh động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.

b) Luận điểm 2: Không khí và nhịp sống thôn quê (Khổ 3)

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

- “Xanh rờn”: màu xanh nhẹ nhàng đầy sức sống của mùa xuân

- "cô nàng, yếm thắm": Cảnh sắc bớt vắng vẻ và trở nên ấm áp hơn.

- "cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua" -> Câu thơ tả động để nói đến cái tình, và nhấn mạnh nhịp sống bình yên của làng quê.

=> Nhịp sống khoan thai nơi đồng quê.

- “sắp ra hoa” -> Niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.

* Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:

- Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.

- Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…

- Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khác đàn cò vút bay ra.

* Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:

- Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.

- Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ:

+ Nội dung: Vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ, tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

+ Nghệ thuật: Từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm, sử dụng nhiều từ láy; thủ pháp lấy cái động để nói cái tĩnh.

- Cảm nhận đánh giá của em về bài thơ.

Câu 2: 

Bài thơ "Chiều xuân" in trong tập "Bức tranh quê" của nữ sĩ Anh Thơ. "Chiều xuân" được viết theo thể thơ 8 tiếng, gồm có 12 câu thơ, chia đều thành ba khổ thơ.

Bức tranh lụa "Chiều xuân" gồm có ba cảnh; cảnh nào cũng bình dị, thân quen với mọi con người Việt Nam chúng ta. Sau gần bảy mươi năm, người đọc cảm thấy cô gái Kinh Bắc đang đứng bâng khuâng ngắm nhìn cảnh bến đò, dải đường đê và cảnh đồng lúa quê nhà một buổi chiều xuân mưa bụi.

Khổ thơ đầu tả cảnh bến đò. Trời đã ngả chiều, mưa xuân đổ bụi trắng đất trắng trời, nên bến đò trở nên vắng vẻ, không một bóng người khách lại qua: "Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng". Từ láy "êm êm" gợi tả một không gian êm đềm trong làn mưa xuân phơi phới bay". Tạo vật như đang được ướp khí xuân và hương xuân; cỏ cây như đang mở mắt, lặng nghe "mưa đổ bị êm êm ", chào đón Chúa xuân đã về.

Con đò chiều mưa được nhân hoá, như một kẻ lười biếng nằm nghỉ, vô tâm và vô tình "mặc nước sông trôi". Ta chợt nhớ đến con đò trong thơ Ức Trai hơn 600 năm về trước:

"Con đò gối bãi suốt ngày ngơi"

(Bến đò xuân đầu trại)

Vì chiều mưa nên quán hàng cũng vắng vẻ. Quán tranh nghèo trên bến đò được nhân hoá như một lữ khách "đứng im lìm" trú mưa đầy tâm trạng. Nhà thơ không nói đến gió xuân mà ta vẫn cảm thấy có nhiều gió thổi. Chữ "tơi bời " gợi lên cảm nhận ấy:

"Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời".

Hoa xoan tím là một nét đẹp của hồn quê xứ sở. Cuối tháng hai đầu tháng ba, xoan ở đầu ngõ, xoan dọc đường bung nở từng chụm, toả hương nồng nàn. Nguyễn Trãi có câu thơ: "Trong tiếng cuốc kêu, xuân đã muộn — Đầy sân mưa bụi, nở hoa xoan" (Cuối xuân tức sự). Trong bài "Mưa xuân" thi sĩ Nguyễn Bính đã viết:

"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy".

Cảnh bến đò với hình ảnh con đò biếng lười, quán tranh im lìm, chòm xoan "hoa tím rụng tơi bời" được Anh Thơ chấm phá một cách tinh tế; hình ảnh nào, họa tiết nào cũng có hồn, rất bình dị, thân thuộc, đáng yêu.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh vật ngoài đường đê. Chắc là những dải đê của sông Cầu, sông Thương, sông Đuống? Cỏ xanh là biểu tượng về sắc xuân. Nhiều nhà thơ đã viết rất hay, rất đẹp về cỏ xuân:

- "Phương thảo liên thiên bích" (cổ thi)

- "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (Nguyễn Trãi)

- "Cỏ non xanh tận chân trời" (Nguyễn Du)

Cô gái Bắc Giang vẫn có một cách cảm nhận riêng, vừa mới vừa đẹp: "Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ". Chữ "non", chữ "biếc" gợi lên màu xanh ngọt ngào; chữ "tràn" gợi tả vẻ tốt tươi, mơn mởn, căng đầy sức sống, nhựa sống của những thảm cỏ xuân trên đường đê uốn lượn. Cảnh vật không còn "êm êm", "im lìm", "vắng lặng" nữa mà trở nên sống động, có hồn. Từ đàn sáo đen, mấy cánh bướm đến những trâu bò tất cả như đang mang theo bao tình xuân:

"Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa".

Nét vẽ nào cũng sinh động: "sà xuống mổ vu vơ" , "rập rờn trôi trước gió", "thong thả cúi ăn mưa". Cánh bướm sặc sỡ không bay mà "trôi", con trâu hiền lành đang gặm cỏ non trên dải đê tưởng "cúi ăn mưa". Chữ dùng của Anh Thơ khá tinh luyện, giàu hình tượng và biểu cảm.

Cảnh thứ hai của bức tranh "Chiều xuân" không còn là tĩnh vật nữa, mà hoạ tiết nào cũng cựa quậy, sống động đầy sức xuân. Các động từ dùng rất đắt: tràn, sà xuống, mổ vu vơ, rập rờn trôi, thong thả cúi ăn mưa. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều; nét nào cũng mang theo sức xuân và tình xuân đầy ý vị. "Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa" là một câu thơ gợi cảm có hình ảnh bình dị đáng yêu đã gợi lên bao nỗi niềm thương mến và tin cậy, làm nhớ lại một lời nguyền xa xưa:

"Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn"

(Ca dao)

Cảnh thứ ba là đồng lúa, lúa "sắp ra hoa " xanh rờn. Lá lúa như những ngón tay xòe ra đón mưa bụi nên "ướt lặng". Lũ cò con như bầy trẻ nhỏ tinh quái, tinh nghịch "chốc chốc vụt bay ra". Chiều đã xuống dần , "Con cò đi đón cơn mưa - Tối tăm mù mịt ai đưa cò về?" (Ca đao). Lũ cò con mong mẹ nên mới "chốc chốc vụt bay ra" hay có tình ý gì? Hình ảnh cô thôn nữ "yếm thắm" nổi bật trên nền xanh ruộng lúa đã làm sáng bừng vần thơ:

"Lũ cò còn chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa".

Cảnh thứ ba có nhiều rung động xôn xao. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh khá thành công, làm nổi bật cảnh "Chiều xuân" nơi làng quê, trong những ngày mưa bụi thật là vắng lặng, êm đềm. Những chiều mưa xuân nơi đồng quê, làng quê ngày xưa vốn thế. Anh Thơ đã giúp những thế hệ độc giả hôm nay và sau này cảm nhận được cảnh vật và không khí thôn dã một thời quá vãng.

Trong "Thi nhân Việt Nam" khi nói về Anh Thơ, nhà văn Hoài Thanh viết: "Sau câu thơ, ta mơ hồ thấy một cái gì: có lẽ là hồn thi nhân". Đọc "Chiều xuân " ta cảm thấy rõ "hồn thi nhân" của nữ sĩ đã trang trải khắp các vần thơ.

"Chiều xuân " cho thấy ngòi bút nghệ thuật của Anh Thơ tinh tế, đậm đà. Cảnh vật được chấm phá, phối sắc hài hoà, ý vị. Có màu tím của hoa xoan, màu biếc của cỏ non, đôi cánh đen của bầy sáo, màu xanh rờn của đồng lúa. Và nổi bật nhất, xinh tươi nhất là chiếc yếm thắm của cô thôn nữ, cô đang cần mẫn cào cỏ trên ruộng lúa "sắp ra hoa".

Anh Thơ sử dụng từ láy tượng hình một cách đắc địa, làm nổi bật cái êm đềm, vắng lặng, xôn xao của cảnh vật trong một chiểu xuân mưa bụi: êm êm, im lìm„vắng lặng, tơi bời, vu vơ, rập rờn, thong thả.

"Chiều xuân" là một bức cổ họa xinh xắn. Không phải cảnh lầu son gác tía, mà là cảnh bình dị, thân thuộc nơi đồng quê, làng quê thuộc đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa, là hồn xuân xứ sở. "Chiều xuân" là một bài thơ hay và đậm đà.


Bình luận

Giải bài tập những môn khác