Câu hỏi tự luận mức độ vận dụng cao Lịch sử 12 cd bài 6: Cách mạng tháng Tám năm 1945

4. VẬN DỤNG CAO (4 CÂU)

Câu 1: Sưu tầm tư liệu, tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở địa phương em và giới thiệu với thầy cô, bạn học.

Câu 2: Vận dụng kiến thức đã học, hãy cho biết những bài học kinh nghiệm nào từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể được vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay?

Câu 3: Giải thích ý kiến sau : Cách mạng Tháng Tám không những là cuộc cách mạng có tính dân tộc, nhân dân rộng lớn và phổ biến mà còn là cuộc cách mạng triệt để, mang đậm tính nhân văn?

Câu 4: Có ý kiến cho rằng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là “sự ăn may” vì nó diễn ra trong điều kiện “trống vắng quyền lực”. Theo anh (chị), nhận xét đó có đúng không ? chứng minh.


Câu 1: 

Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), không khí cách mạng ở Hà Nội càng thêm sôi sục. Xứ ủy Bắc kỳ, Thành ủy Hà Nội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng quân sự chuẩn bị khởi nghĩa; đồng thời tổ chức phát động nhiều phong trào đấu tranh để rèn luyện, tập dượt quần chúng.

Đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ra Quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước.

Trước tình hình chuyển biến mau lẹ, Xứ ủy Bắc Kỳ họp (tối 14 và ngày 15/8/1945) tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), quyết định tiến hành khởi nghĩa trong 10 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Riêng vấn đề khởi nghĩa ở Hà Nội cần được cân nhắc kỹ do còn hơn 1 vạn quân Nhật chiếm đóng trong thành phố. Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội (tức Ủy ban Khởi nghĩa) để tích cực chuẩn bị khởi nghĩa.

Thực hiện chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, Thành ủy Hà Nội triệu tập Hội nghị quân sự bất thường ngay tối 15/8/1945 tại Chùa Hà (Dịch Vọng) bàn về kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: Tuy Chính phủ Nhật đã đầu hàng quân Đồng minh nhưng quân Nhật ở Hà Nội còn đông (hơn 1 vạn tên), lại được trang bị các loại vũ khí hiện đại. Chúng sẽ sẵn sàng nổ súng chống lại cách mạng khi bị đẩy vào tình thế nguy cấp.

Trong khi đó, về phía ta, tuy lực lượng quần chúng cách mạng đông đảo nhưng lực lượng vũ trang tập trung còn mỏng (hơn 700 người), trang bị phần lớn là vũ khí thô sơ (chỉ có hơn 40 khẩu súng trường và một số súng ngắn), mới qua một vài lớp huấn luyện quân sự cấp tốc. Từ nhận định trên, Hội nghị chủ trương tiếp tục tìm giải pháp phù hợp, cố gắng tránh xung đột vũ trang với quân đội Nhật; dự kiến phương pháp khởi nghĩa: lấy lực lượng vũ trang làm lực lượng xung kích đi đầu, huy động đông đảo lực lượng quần chúng cách mạng có vũ trang tham gia khởi nghĩa giành chính quyền; tiếp tục tăng cường tập hợp phát triển lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, trang bị thêm vũ khí, sẵn sàng đối phó với quân Nhật khi cần thiết.

Trong thời gian này, các đội xung kích của ta vẫn tích cực hoạt động. Tối 15/8/1945, đội tuyên truyền xung phong của Việt Minh tổ chức diễn thuyết công khai ở những rạp hát lớn trong thành phố. Ngày 16/8/1945, truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi khởi nghĩa xuất hiện khắp nơi. Chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim thân Nhật lung lay tận gốc rễ.

Nhưng chiều 17/8/1945, Tổng hội Viên chức tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Nhà hát lớn với mục đích ủng hộ chính phủ thân Nhật. Nắm bắt kế hoạch từ trước, Đảng bộ Hà Nội của Đảng Cộng sản Đông Dương đã bí mật huy động quần chúng trong các tổ chức cứu quốc ở nội, ngoại thành đến tham dự, biến cuộc mít tinh thân Nhật thành cuộc mít tinh ủng hộ ủng hộ Việt Minh, sau đó biến nó thành một cuộc biểu tình tuần hành qua các phố, có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu, vừa hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Cuộc biểu tình tuần hành diễn ra sôi động, lôi kéo thêm hàng vạn quần chúng xuống đường với khí thế cách mạng chưa từng thấy. Quân đội Nhật “án binh bất động”.

Nhận thấy thời cơ cách mạng đã chín muồi, ngay tối 17/8/1945, Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ và Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội quyết định phát động khởi nghĩa bằng phương thức huy động sức mạnh của quần chúng, lấy lực lượng chính trị quần chúng làm cơ bản, với lực lượng vũ trang làm nòng cốt, tổ chức mít tinh ở quảng trường Nhà hát lớn, sau đó chuyển thành tuần hành thị uy chiếm những cơ quan trọng yếu của chính phủ bù nhìn.

Các đội vũ trang là lực lượng xung kích của khởi nghĩa, đi đầu chiếm các mục tiêu, đồng thời bố trí ở những vị trí cơ động để sẵn sàng chi viện cho nhau. Để bảo đảm cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, không đổ máu, Thường vụ Xứ ủy và Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội chủ trương tiếp tục giữ quân đội Nhật trong trạng thái “án binh bất động”; do đó không đặt ra vấn đề tước vũ khí của quân Nhật, cũng không đánh chiếm những nơi có quân Nhật đang đóng giữ (Phủ Toàn quyền, Bộ Tổng tham mưu, thành Cửa Bắc, Ngân hàng Đông Dương...). Trong trường hợp quân Nhật nổ súng, ta kiên quyết chống cự, chờ Giải phóng quân từ Việt Bắc về phối hợp chiến đấu. Thời gian khởi nghĩa được ấn định chính thức là ngày 19/8/1945.

Thực hiện mệnh lệnh phát ra, trong ngày 18/8/1945, không khí sửa soạn khởi nghĩa bao trùm khắp Hà Nội. Đến sáng 19/8/1945, cả Thủ đô tràn ngập khí thế cách mạng. Đồng bào tập trung kéo đến quảng trường Nhà hát Lớn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Đại biểu Việt Minh đọc tuyên ngôn, chương trình của Việt Minh và kêu gọi nhân dân đứng dậy giành chính quyền. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, chia ra nhiều đoàn đi chiếm các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế quần chúng khởi nghĩa, quân Nhật không dám chống lại.

Tối 19/8/1945, các cơ quan quan trọng của chính quyền bù nhìn tay sai tại Hà Nội đã về tay cách mạng, Việt Minh hoàn toàn làm chủ thành phố. Cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn. Sự kiện này có tác dụng cổ vũ lớn đối với phong trào cả nước, đặc biệt là ở Huế, Sài Gòn.

Như vậy, quán triệt đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, Thành ủy và Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội giành thắng lợi triệt để; đặc biệt là tránh cho lực lượng khởi nghĩa không phải đối đầu trực tiếp với quân Nhật và loại trừ được các lực lượng chính trị phản động khác nuôi mưu đồ đảo ngược tình thế.

Tech12h

Cuộc mít tinh tại quảng trường Nhà hát Lớn ngày 19/8/1945

Những ngày cuối tháng 8/1945, nhân dân Hà Nội nhiệt liệt chào đón Giải phóng quân cùng các cơ quan đầu não Trung ương Đảng, Chính phủ cách mạng lâm thời từ căn cứ Việt Bắc về, mở ra một cột mốc lịch sử mới của thời đại.

Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước hàng chục vạn đồng bào tham dự mít tinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cũng từ đây, Hà Nội chính thức trở thành Thủ đô của nước Việt Nam mới, trở thành thành trì đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do và chính quyền non trẻ vừa giành được.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh giải phóng dân tộc từ khi có Đảng lãnh đạo (1930), trực tiếp là cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, có thể khẳng định: Khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội (19/8/1945) thực sự là một sự kiện rất đặc biệt. Bởi đây là thắng lợi “mẫu mực, tiêu biểu” của nghệ thuật lãnh đạo phát hiện, chớp đúng thời cơ, với phương pháp cách mạng rất sáng tạo. Quan trọng hơn, cuộc khởi nghĩa thắng lợi ấy đã có sức cổ vũ to lớn thúc đẩy phong trào cách mạng của cả nước phát triển; đồng thời cũng dựng lên một thành trì vững chắc để nhân dân ta tiếp tục đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng vừa giành được trong giai đoạn về sau./.

Câu 2: 

Một số bài học kinh nghiệm từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có thể được vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay:

Thứ nhất, luôn giữ vững, củng cố và không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng tiên phong, tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Thứ hai, vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạnglàm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy Nhà nước cũ, lập ra Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Thứ ba, vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thờiNghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Thứ tư, phát huy sức mạnh của tinh thần yêu nước, đại đoàn kết của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đạiTừ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập, tự do, người cày có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý chí Việt Nam”, tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn động lực to lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn.

Câu 3:

- Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một cuộc cách mạng mang tính dân tộc sâu sắc, bởi nó đã thành công trong việc đánh đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc. 

- Đây là một cuộc cách mạng của toàn dân, với sự tham gia của mọi tầng lớp, không phân biệt giai cấp, địa vị, tôn giáo. 

- Đặc biệt, nó còn là một cuộc cách mạng triệt để, vì đã lật đổ hoàn toàn hệ thống cai trị áp bức, mở đường cho sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

- Cuộc cách mạng này mang đậm tính nhân văn khi nó không chỉ giải phóng dân tộc khỏi áp bức, mà còn hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, nơi quyền con người được tôn trọng và phát huy. 

-Nhờ tính chất toàn diện và nhân văn này, Cách mạng Tháng Tám đã trở thành cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Câu 4: 

+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, góp phần cùng Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát xít, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho toàn thể nhân loại.... Cách mạng Tháng Tám còn góp phần tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.

+ Do chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc của Cách mạng tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã không thấy hết vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng, từ sau cuộc đảo chính ngày 9/3/1945, Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là thuộc địa của Nhật. Trong khi đó, phát xít Nhật đã bị quân Đồng minh đánh bại và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện(Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng Minh chưa tới) Như vậy, ở Đông Dương xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, cho nên cách mạng chỉ cần nổ ra là giành thắng lợi

+ Thế nhưng, thực tiễn lịch sử đã chứng minh được thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không phải là một sự ngẫu nhiên, ăn may mà là sự chuẩn bị lâu dài và chớp lấy thời cơ của Đảng ta.

1. Quá trình chuẩn bị :

- Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả của 15 năm đấu tranh của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo (1930 – 1945)

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đó là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho Cách mạng tháng Tám.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 là một cuộc diễn tập đầu tiên của Cách mạng tháng Tám.

Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là một cuộc diễn tập thứ hai của Cách mạng tháng Tám.
Phong trào vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945, thời kì chuẩn bị trực tiếp cho Cách mạng tháng Tám.

- Cuộc đấu tranh chống phát xít của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) đã tạo cơ hội khách quan cho các thuộc địa vùng lên tự giải phóng khỏi ách thực dân. Đảng

Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược :
Nhận định mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với đế quốc, phát xít Pháp, Nhật trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất, vận mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng.

Vì vậy, lúc này giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất, kẻ thù chính trước mắt là bọn đế quốc, phát xít Pháp, Nhật.

Chủ trương thành lập “Việt Nam độc lập đồng minh” (Việt Minh) bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là cứu quốc, nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân chống đế quốc phát xít Pháp, Nhật và tay sai.

Chuẩn bị xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng, và lực lượng vũ trang. Xây dựng căn cứ địa ở nông thôn. Đẩy mạnh đấu tranh ở các thành phố. Đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn đảng, toàn dân; vạch rõ, khởi nghĩa vũ trang muốn thắng lợi phải nổ ra đúng thời cơ, phải có đủ điều kiện chủ quan và khách quan, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

- Những chủ trương đó được thể hiện trong các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ Hội nghị IV (1939), Hội nghị VII (1940), Hội nghị VIII (1941).

- Trên cơ sở chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, Đảng đã xây dựng lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị và xây dựng căn cứ địa cách mạng... chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến

2. Quá trình nắm lấy thời cơ giành chính quyền

+ Thời cơ xuất hiện (Pháp bị Nhật đảo chính 9/3/1945), phát xí Nhật đầu hàng Đồng minh (giữa tháng 8/1945), chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang rệu rã, quân Đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương.

+ Đảng nhận định, đề ra chủ trương phát động quần chúng khởi nghĩa (từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.

- Ngay từ ngày 13/8/1945, khi được những thông tin về việc Nhật sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra “Quân lệnh số 1”, chính thức phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

- Tiếp đó, ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền

- Từ ngày 16 đến 17/8/1945, Quốc dân Đại hội được triệu tập tại Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

- Từ ngày 18 đến ngày 28 tháng 8/1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi trong toàn quốc. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời đề ra nhiều chủ trương, biện pháp đúng đắn và sáng tạo. Nhờ đó, cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 đã giành được thắng lợi nhanh chóng trong 15 ngày. 


Bình luận

Giải bài tập những môn khác