Đề 2b: Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên của con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: “Ta về, mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”.

Đề 2b: Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên của con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: “Ta về, mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”.. Sau đây, tech12h gửi đến bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.

[toc:ul]

Dàn ý chung

1. Mở bài:

  • Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10-1954, sau chiến thắng Biện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp.
  • Nội dung bài thơ là niềm nhớ thương, là tình cảm gắn bó sâu nặng của người về xuôi (cán bộ, chiến sĩ cách mạng) đối với đồng bào và chiến khu Việt Bắc.
  • Đoạn trích thể hiện sinh động và chân thực tình cảm đó.

2. Thân bài:

Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:

  • Câu hỏi tu từ mở đầu: Ta về mình có nhớ ta ? Gợi cho người đọc nhớ tới cách giãi bày tình cảm rất tự nhiên, mộc mạc của người lao động trong ca dao. Nghệ thuật dân gian được nhà thơ vận dụng linh hoạt, uyển chuyển để thể hiện nội dung hiện đại.
  • Câu thứ hai: Ta về ta nhớ những hoa cùng người là lời khẳng định tình cảm gắn bớ chân thành, tha thiết của người về xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc vừa tươi đẹp vừa son sắt nghĩa tình.
  • Từ câu thứ ba đến câu cuối, Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng, Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang, Ve kêu rừng phách đổ vàng, Nhớ cô em gái hái măng một mình, Rừng thu trăng rọi hoà bình, Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua những hình ảnh chọn lọc, tiêu biểu, giàu sức gợi tả, gợi cảm.
  • Nỗi nhớ cảnh vật và nỗi nhớ con người hòa quyện vào nhau, tạo ấn tượng khó phai trong lòng người về xuôi.

Phát biểu cảm nghĩ đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta … ân tình thủy chung” trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

3. Kết bài:

  • Đoạn thơ như một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy màu sắc và ánh sáng.
  • Con người và thiên nhiên Việt Bắc hòa làm một. Kỉ niệm về Việt Bắc sẽ trở nên thiêng liêng trong đời sống tinh thần của những cán bộ, chiến sĩ đã từng gắn bó sông chết với nơi đây trong suốt cuộc chiến tranh chông thực dân Pháp xâm lược.

Bài mẫu 1: Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên của con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: “Ta về, mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”

Bài làm

 “Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng người... Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tầm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu - nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao...

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai - tiếng hát ân tình thủy chung.

Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việc Bắc có gì để mà nhớ, đế mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người

Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiện nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.

Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.

Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “rừng phách đổ vàng". Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dịu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng... Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hòa tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.

Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi... Núi rừng Việt Bắc như một sinh thế đang biến đổi trong từng khoảnh khắc...

Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trơ nên hài hòa nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đóa hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hòa. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao... Hình ảnh con người làm nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ dẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xừ với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thủy chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc... Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.

Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:

Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.

Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Ki niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại...

Những câu thơ cùa Tô Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng

Bài mẫu 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng thiên nhiên của con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau: “Ta về, mình có nhớ ta… ân tình thủy chung”

Bài làm

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được sáng tác vào tháng 10-1954, sau thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến 9 năm chông thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta. Đây là một trong những bài thơ có giá trị của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bao trùm bài thơ là niềm nhớ thương tha thiết và tình cảm gắn bó đằm thắm, sắt son của nhân dân Việt Bắc với Bác, với Đảng, với Cách mạng và sự quyến luyến chân thành của cán bộ, chiến sĩ ta với chiến khu Việt Bắc. Đoạn thơ sau đây thể hiện nghĩa tình sâu sắc giữa người ra đi và người ở lại:
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ: Ta về, mình có nhớ ta? gợi nhớ tới cách giãi bày tình cảm tha thiết và ý nhị trong ca dao xưa : Mình về có nhớ ta chăng ! Ta về ta nhớ hàm răng mình cười… Dưới ngòi bút tài hoa của Tố Hữu, nghệ thuật dân gian được vận dụng linh hoạt để biểu hiện tình cảm gắn bó thủy chung giữa nhân dân và cách mạng. Từ cách xưng hô ta, mình quen thuộc đến những hình ảnh vừa cổ điển vừa hiện đại: Ta về ta nhớ những hoa cùng người. Hoa tượng trưng cho thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ tươi đẹp. Chủ nhân của thiên nhiên ấy là những con người mộc mạc, đơn sơ như sắc áo chàm nhưng lại vô cùng đẹp đẽ về phẩm chất và rất giàu tình nghĩa.

Mảnh đất Việt Bắc, con người Việt Bắc đã để lại bao kỉ niệm, ấn tượng khó phai trong lòng người ra đi. Những kỉ niệm tha thiết ấy làm sao quên được? Người từ giã chiến khu về xuôi, nhớ Việt Bắc qua những hình ảnh quen thuộc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,

Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng.

Nhớ cảnh, nhớ người cứ đan quyện vào nhau. Quên sao được những rừng mơ nở trắng ngày xuân?! Quên sao được hình ảnh thân thương của những người đan nón chuốt từng sợi giang, gửi cả tấm lòng vào chiếc nón nan tặng người chiến sĩ ?!

Thiên nhiên Việt Bắc mùa nào cũng có một vẻ đẹp diệu kì riêng. Mùa hè, tiếng ve kêu ran ran như nhịp phách rộn rã của rừng. Trên cái nền xanh thẳm ấy, thấp thoáng bóng dáng mềm mại lúc ẩn lúc hiện của cô em gái hái mãng. Rồi những đêm thu trăng tròn nơi chiến khu Việt Bắc, tiếng hát ân tình thủy chung vang vọng, thắm thiết tình quân dân cá nước. 

Tám câu thơ tràn ngập ánh sáng, đường nét và sắc màu tươi mát. Mỗi câu như một bức tranh tuyệt đẹp về phong cảnh từng mùa và con người là bộ phận không thể thiếu trong khung cảnh ấy. Con người hòa với thiên nhiên làm một.

Nhịp điệu đoạn thơ chậm rãi, âm hưởng êm đềm, lắng sâu vào tâm hồn, gợi nhớ và những vùng trời kỉ niệm thiêng liêng trong đời sống tâm linh của mỗi con người.

Từ khóa tìm kiếm: văn mẫu 12, tổng hợp văn mẫu 12, bài viết số 3 ngữ văn 12, hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Bình luận

Giải bài tập những môn khác